Bài 2: Ứng xử văn minh với di sản làng nghề
Không thể phủ nhận sự đóng góp của các làng nghề vào tiến trình xây dựng NTM, song, bên cạnh những tác động tích cực về kinh tế-xã hội vẫn phải thẳng thắn nhìn nhận những “góc khuất” tồn tại như môi trường, nguồn nhân lực chất lượng cao, công nghệ sản xuất...…mà hiện nhiều địa phương chưa tìm ra hướng giải quyết triệt để.
“Nút thắt” khó cởi
Con đường chính chạy qua thôn Mẫn Xá vào UBND xã Văn Môn (Yên Phong) ngập trong những đống bao tải rác thải nối tiếp, những nếp nhà cao thấp mờ ảo trong làn khói bụi. Bí thư Đảng ủy xã Mẫn Văn Hàn lắc đầu than thở: “Từ 2 năm trước, Văn Môn đã hoàn thành đến 18/19 tiêu chí xây dựng NTM, nhưng hiện vẫn dậm chân tại chỗ. Chỉ còn một tiêu chí khó nhất, đó là môi trường nên đích NTM vẫn còn xa”.
Toàn xã hiện có 346 hộ làm nghề cô đúc nhôm; hơn 100 hộ kinh doanh phế liệu, hơn 600 hộ sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, giải quyết việc làm thường xuyên cho hơn 4.000 lao động trong và ngoài địa phương. Theo thống kê, mỗi ngày, các cơ sở tái chế kim loại tại đây thải ra môi trường hơn 3 tấn tro xỉ. Không chỉ tác động xấu tới cuộc sống, sinh hoạt của người dân, ô nhiễm còn xâm lấn tới phần lớn đất nông nghiệp của xã khi hầu hết diện tích đều bị nhiễm kim loại nặng. Để giải quyết tình trạng này, UBND xã đã có nhiều biện pháp, từ vận động, tuyên truyền đến cưỡng chế nhưng kết quả không khả quan hơn. Thậm chí nhiều đoàn công tác từ nước ngoài về hỗ trợ làng nghề đổi mới công nghệ giúp hạn chế tình trạng ô nhiễm rồi cũng chỉ làm được điểm vài hộ mà không thể nhân rộng.

Nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh vẫn còn lưu giữ nhiều bản khắc gỗ tranh dân gian Đông Hồ xưa kia.
Trong khi đó, là một làng nghề “bản sắc” của Bắc Ninh, ít tai ngờ, làng tranh Đông Hồ nay chỉ còn được duy trì bởi 3 hộ. Nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh (con dâu của nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam), người hơn 40 năm gắn bó với tranh Đông Hồ nằm trong số ít người vẫn một lòng với di sản văn hóa của dân tộc. Chứng kiến lúc hưng thịnh, lúc sa sút của làng nghề, thảng hoặc, trong tâm thức bà lại trỗi dậy những kỷ niệm của một thời vang bóng, khi làng nghề tấp nập người mua bán tranh, nhà nhà hào hứng làm tranh. Một bức tranh ra đời chứa đựng trong nó bao nhiêu tài hoa, công sức, thời gian, ý tưởng, suy nghĩ của người làm tranh, nhưng đó cũng là lý do mà người dân phải dứt bỏ nghề truyền thống khi tranh không thể đủ nuôi sống họ. Thế nên, giờ đây, đến Đông Hồ, bên cạnh sự trầm trồ trước những dãy nhà thật to đẹp, khang trang, người ta lại ngỡ ngàng khi chỉ còn nhìn thấy những chồng cao, thấp vàng mã rực rỡ chật kín nhà. Đi kèm với đó, là nguy cơ cháy nổ, mất vệ sinh môi trường. Chỉ còn những hộ như bà Oanh, như nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, ông Nguyễn Tuấn Tấn vẫn đang cần mẫn duy trì cơ sở làm tranh của mình như một bảo tàng lưu trữ để khách du lịch tham quan. Trong đó, nổi bật là cơ sở sản xuất và trưng bày những bức tranh Đông Hồ độc đáo diện tích 10.000 mét vuông của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế là được đầu tư bài bản và thu hút khách hơn cả. Tuy nhiên, lượng khách mua không nhiều, một số ít sản phẩm được theo chân những chuyến ngoại giao của các lãnh đạo, tổ chức, cá nhân. Nghề mai một và khó tìm được thế hệ kế cận khi mà ngày càng ít người đến học và kiên trì theo đuổi. Giọng ngậm ngùi, bà Oanh chia sẻ: “Kể từ khi tranh Đông Hồ được công nhận là Di sản phi vật thể quốc gia, chúng tôi cũng được quan tâm, tạo điều kiện hơn về giới thiệu sản phẩm. Tuy đã có nhiều cố gắng của không ít cá nhân, tổ chức, nhưng việc khôi phục và phát triển dòng tranh vẫn chưa tạo ra động lực đột phá”.
Làng nghề là đòn bẩy cho NTM về đích nhưng cũng có những tác động ngược trở lại bởi những ảnh hưởng về vấn đề môi trường, an ninh trật tự. Nguyên nhân chính là do hầu hết các làng nghề hiện nay vẫn phát triển manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, trong không gian chật hẹp. Không riêng gì Văn Môn, Đại Bái, Phù Lãng… mà hiện 80% người dân tại các làng nghề đều sử dụng nhà ở làm nơi sản xuất đi cùng công nghệ lạc hậu dẫn đến gia tăng nguồn thải gây ô nhiễm. Bên cạnh đó, câu chuyện muôn thuở về nguồn nhân lực chất lượng cao, thị trường tiêu thụ, xúc tiến thương mại… cũng là nỗi lo của không ít làng nghề trong bối cảnh hội nhập. Bởi lẽ, sản phẩm của làng nghề truyền thống có giá thành cao, mẫu mã chưa đa dạng, chưa theo kịp thị hiếu người tiêu dùng. Khả năng xuất khẩu sang các thị trường khó tính hầu như không có, khó cạnh tranh với những sản phẩm cùng loại được sản xuất bằng công nghệ hiện đại. Nhất là với những đơn hàng yêu cầu lớn về số lượng, chủng loại và đòi hỏi nghiêm ngặt về thời gian giao hàng. Một số nơi được công nhận là làng nghề, làng nghề truyền thống, hoặc các sản phẩm được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể nhưng chưa được quan tâm đầu tư. Công tác phát triển làng nghề gắn với du lịch còn nhỏ lẻ, chưa bài bản.
Giữ lửa làng nghề
Tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều chính sách, đề án liên quan đến phát triển làng nghề và xây dựng NTM như: Đề án Phát triển tiểu thủ công nghiệp và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2011-2015; Chương trình Xây dựng NTM ở các xã có làng nghề; Quy hoạch phát triển hệ thống làng nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2025… Tuy nhiên, phải nhìn nhận thực tế là công tác quản lý nhà nước về làng nghề còn chồng chéo, các chính sách hỗ trợ phát triển nghề và làng nghề chưa hoàn chỉnh, chưa đi sâu và tác động mạnh mẽ đến các cơ sở sản xuất trong làng nghề.
Để xử lý được rào cản lớn nhất trong quá trình xây dựng NTM ở các làng nghề là ô nhiễm môi trường, theo ông Nguyễn Nhân Phượng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh thì về lâu dài, nhất thiết phải quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề gắn với quy hoạch kết cấu hạ tầng NTM. Đồng thời, tạo ra cơ chế thông thoáng với chính sách ưu đãi đi kèm để thay đổi thói quen của người dân, thu hút họ vào sản xuất tập trung.
Trong khi đó, ông Nguyễn Phương Bắc, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế - xã hội tỉnh cho rằng: “Trong bối cảnh Bắc Ninh đang nỗ lực xây dựng NTM theo hướng đô thị để phù hợp với quy hoạch trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, việc phát triển làng nghề cần phải gắn với hình thành các tổ chức kinh tế hợp tác, các nhóm liên kết, các hiệp hội làng nghề nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp hiệu quả. Bởi để tạo ra sức bật cho làng nghề, căn bản phải khắc phục tình trạng sản xuất manh mún”.
Rác thải tràn lan lề đường ở Văn Môn (Yên Phong).
Hiện tỉnh đang xây dựng và triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030. Trong đó chú trọng công tác đào tạo, nhân cấy nghề, xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm, đồng thời có thêm những chính sách hỗ trợ sản xuất như: Ứng dụng khoa học công nghệ, vốn, xúc tiến thương mại… nhằm tạo ra những sản phẩm có nét văn hóa độc đáo riêng, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên có sẵn và lao động tại chỗ.
Cụ thể, đối với nơi đã có nghề, cần lập dự án phát triển nghề hiện có và “nhân cấy” nghề mới. Đối với nơi chưa có nghề, cần quy hoạch ngành nghề, quy hoạch mặt bằng, xây dựng kế hoạch, dự án phát triển, tìm hiểu thị trường, liên kết với các cơ sở nghề để đào tạo tay nghề. Các chính sách hỗ trợ làng nghề tập trung vào các ngành nghề chủ đạo, có lợi thế và tiềm năng lớn tạo nên các sản phẩm có sức cạnh tranh mạnh mẽ, kết hợp với việc khuyến khích thành lập các doanh nghiệp đầu mối, đảm nhận khâu tiêu thụ sản phẩm cho các hộ sản xuất. Bảo tồn không gian làng nghề cần phải hỗ trợ những người làm nghề sống được bằng nghề của mình và nâng đỡ, khuyến khích, tạo mọi điều kiện vật chất, tinh thần cho các nghệ nhân. Đặc biệt, các địa phương có kế hoạch phát triển làng nghề đi liền với phát triển du lịch văn hoá, vừa làm phong phú thêm các sản phẩm du lịch vừa tạo thêm thị trường cho chính sản phẩm làng nghề.
Lịch sử đã kết tinh và tạo ra làng nghề như một môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghệ lâu đời. Những di sản quý báu từ quá khứ ấy đã và đang góp sức cho những người dân hiện đại một cuộc sống no ấm, đủ đầy. Và giờ đây, trong bối cảnh hội nhập, CNH-HĐH phủ sóng rộng khắp, làng nghề cũng đang gửi tới người dân và nhà quản lý một thông điệp đòi hỏi sự ứng xử văn minh, chiến lược phát triển dài hạn để gìn giữ lửa nghề và tạo sức sống bền vững cho vùng đất trăm nghề Bắc Ninh-Kinh Bắc.
Ý kiến ()