Bắc Ninh được mệnh danh là “đất trăm nghề”, nơi hội tụ, kết tinh, lan tỏa nhiều ngành nghề truyền thống. Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới (NTM), các làng nghề đã và đang ghi dấu ấn mạnh mẽ.
Bài 1: Làng nghề vươn cao, quê hương thay áo
Làng nghề không chỉ là mô hình kinh tế đặc thù, mang lại thu nhập đáng kể cho người dân, mà còn là sợi dây kết nối cộng đồng giữa truyền thống và hiện đại trong công cuộc xây dựng NTM. Thời đại toàn cầu hóa, không ít địa phương đã từng bước đưa các sản vật làng nghề vươn ra các địa phương trong nước và thế giới.
“Ly nông bất ly hương”
Trong xưởng sản xuất rộng hơn 100m2 của gia đình ông Đỗ Văn Thụ (thôn An Bình, xã Đông Thọ, huyện Yên Phong) các công nhân miệt mài với công đoạn sơ chế tóc: Gỡ tóc, chải mượt, hấp, sấy… “Trung bình mỗi tháng gia đình tôi sơ chế 1-2 tấn tóc các loại. Phần lớn đều được các thương lái Trung Quốc, Thái Lan về tận nơi thu mua hết. Mấy năm gần đây, sản phẩm tóc còn được các doanh nghiệp trung gian đặt hàng để xuất khẩu sang một số nước Châu Âu. Tất nhiên để đến được với thị trường này đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng rất khắt khe, song lợi nhuận cũng cao hơn hẳn”, ông Thụ phấn khởi cho hay.
Ngoài gia đình ông Thụ, tại thôn Đông Bích, An Bình có tới hơn 300 hộ tham gia làm nghề thu mua, sơ chế tóc. Dọc con đường dẫn vào thôn, những dãy nhà tầng khang trang, kiểu dáng biệt thự mọc lên san sát. Xe chở nguyên vật liệu, hàng thành phẩm tấp nập ra vào. Nghề phụ “tóc rối đổi kẹo” trở thành nghề chính, tóc từ loại phế liệu chẳng mấy giá trị giờ trở thành mặt hàng xuất khẩu, bước qua cổng vàng Châu Âu. Để bắt kịp nhịp điệu kinh tế thị trường, những ông chủ, bà chủ ở đây tỏa đi khắp các tỉnh Bắc - Nam để thu mua nguyên liệu, nhiều người sang nước ngoài để tìm kiếm thị trường, học thêm tiếng Anh, tiếng Trung Quốc… để tiện giao dịch với bạn hàng. “Dù bước đầu tạo dựng được cuộc sống khấm khá nhưng chúng tôi hiểu rằng muốn làm nghề bền lâu phải không ngừng đổi mới trong cả tư duy và cách làm, đặc biệt là giữ chữ tín trong kinh doanh. Dân làng bảo nhau cùng làm, không tranh giành mối làm ăn của nhau, không ép giá, nói thách cao… Nhờ đó mà tình làng nghĩa xóm luôn bền chặt, không có chuyện xích mích hay mất an ninh trật tự”, ông Thụ bộc bạch.

Một góc nông thôn mới Đông Xuất (xã Đông Thọ, Yên Phong).
Quả thực, dù số người trở thành tỉ phú ở đây không phải là hiếm, ai cũng tất bật với công việc sản xuất, kinh doanh song nếp sinh hoạt ở làng quê vẫn được giữ gìn. Các công trình đền, chùa… được quan tâm tu sửa; nhà văn hóa thôn, sân vận động, đường giao thông… xây dựng khang trang; các tiết lệ, hội làng được duy trì đều đặn. Tất cả đều có sự chung tay, góp sức của người dân. Chủ tịch UBND xã Đông Thọ Nguyễn Quang Niềm cho hay: “Nghề tóc là minh chứng cho sự năng động, sáng tạo, khéo léo của người dân Đông Thọ. Nghề mới nhân cấy thành công góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động trong và ngoài xã. Đông Thọ đang định vị được tên tuổi trên thị trường, trở thành nơi thu mua, tập kết tóc của cả nước. Nhiều hộ thành lập công ty sản xuất với quy mô lớn, doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm”.
Bên cạnh nghề tóc, với cách làm phù hợp cùng tư duy nhanh nhạy của người dân thời mở cửa, Đông Thọ đã và đang chuyển mình thành đất đa nghề và là nơi trổ tài của hàng nghìn doanh nhân xuất thân từ nông dân. Toàn xã hiện có hơn 1.100 cơ sở sản xuất kinh doanh, sản xuất nông nghiệp chỉ còn khoảng 15% trong cơ cấu kinh tế của xã. Phương châm “ly nông bất ly hương” được thực hiện sáng tạo, thành công, góp phần đưa Đông Thọ trở thành 1 trong những xã đầu tiên của tỉnh hoàn thành 19/19 tiêu chí trong xây dựng NTM (năm 2014).
Vươn ra “biển lớn”
“Tôi sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này nên từ nhỏ “nghiệp gỗ” ăn sâu vào máu. Mục tiêu tôi đặt ra không chỉ là làm giàu cho bản thân mà còn phải làm sao đưa thương hiệu gỗ Đồng Kỵ vươn ra thế giới”, chị Vũ Thị Mai, Tổng Giám đốc Công ty Đồ gỗ Hướng Mai - một trong những doanh nghiệp đồ gỗ mỹ nghệ hàng đầu tại phường Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn) tâm sự.
Đã có một thời, cái khó nhất đối với chị Mai là phải cạnh tranh ngay chính với các xưởng sản xuất khác trong làng nghề. Bởi không ít xưởng gỗ lúc ấy chỉ sản xuất gia công mà thiếu đi sự tinh xảo, thiếu đi cái hồn cốt lâu đời của gỗ Đồng Kỵ, rồi bán với giá rẻ. “Tôi không chọn cách làm ấy mà sản phẩm của tôi phải là một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Thay vì trả công khoán, tôi quyết định trả công nhật cho thợ. Thậm chí, chấp nhận cả việc một sản phẩm đáng lẽ chỉ làm trong 10 ngày đã đẹp, thì có khi phải trả công cho thợ cả tháng. Khi sản phẩm của mình thực sự đẹp thì khách hàng sẽ tìm đến”. Công ty của gia đình chị hiện có 3 xưởng sản xuất với diện tích hơn 2.000 m2, một Trung tâm Thương mại Hướng Mai Center 9 tầng, tổng diện tích 10.000 m2, chuyên trưng bày các sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ phục vụ khách hàng trong nước và quốc tế, doanh thu cả trăm tỷ đồng mỗi năm, tạo việc làm thường xuyên cho 200-300 lao động. Hướng Mai đang xây dựng trang web bằng tiếng Anh cùng đội ngũ bán hàng online cho khách nước ngoài. Các sản phẩm sẽ được gắn mã vạch, hiển thị đầy đủ các thông tin về sản phẩm, thậm chí cả tên nghệ nhân, ngày sản xuất, giá trị, chất liệu gỗ, ý nghĩa về mặt phong thủy…

Chị Mai đang ấp ủ xây dựng một trường dạy nghề cho con em trong làng và lên kế hoạch hợp tác phát triển du lịch làng nghề Đồng Kỵ với mong muốn thông qua du lịch để gìn giữ các các giá trị văn hóa truyền thống, đưa sản phẩm đến gần hơn với thị trường quốc tế. Đây cũng là ước mơ, mục tiêu chung của người dân Đồng Kỵ. Bên cạnh rèn giũa tay nghề ngày một tài hoa, điêu luyện, những người “sinh ra từ làng” không ngừng học hỏi để hướng đến việc kinh doanh bài bản và chuyên nghiệp hơn, làm giàu cho bản thân cũng là cách để đưa quê hương phát triển vững mạnh. Trò chuyện với những người dân, doanh nhân nhiệt huyết ở đây, chúng tôi hiểu rằng cái đích xây dựng NTM không còn dừng lại ở 19 tiêu chí mà là khát vọng nâng tầm sản phẩm truyền thống quê hương trở thành sản phẩm mang tầm vóc quốc gia, một thương hiệu tiêu biểu để người dân, du khách trong và ngoài nước biết đến, tìm về.
“Nội lực” làng nghề
Theo báo cáo của Chi cục Phát triển nông thôn, toàn tỉnh hiện có 73 làng nghề, 24 cụm công nghiệp làng nghề, 12.700 hộ làm nghề với hơn 43.000 lao động. Tổng giá trị sản xuất của các làng nghề năm 2016 đạt 13.861,4 tỷ đồng. Nhờ chú ý xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghệ, xúc tiến thương mại, nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển mạnh như: Đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, đồng Đại Bái, sắt thép Đa Hội, giấy Phong Khê, gốm Phù Lãng, mây tre đan Xuân Lai, Xuân Hội… Đời sống của người dân cao hơn so với làng thuần nông, thu nhập trung bình 5-6 triệu đồng/người/tháng. Tại các làng nghề ra đời nhiều công ty, không ngừng mở rộng liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước, giúp tỉnh thu về ngân sách hàng trăm tỷ đồng tiền thuế mỗi năm.
Trong số 58 xã của tỉnh đã về đích NTM, có không ít các địa phương thành công trong việc phát huy vai trò đầu tàu của làng nghề như: Đại Bái, Lãng Ngâm (Gia Bình); Tam Giang (Yên Phong); Hoài Thượng (Thuận Thành); Trung Kênh (Lương Tài); Lạc Vệ (Tiên Du)… Điểm chung của những nơi này là sự đồng lòng của chính quyền và người dân trong việc phát triển hài hòa giữa lợi ích kinh tế và các giá trị cộng đồng, an sinh xã hội, môi trường... Chính quyền tạo cơ chế khuyến khích người dân đầu tư sản xuất, làm giàu và ngược lại người dân có ý thức, trách nhiệm đóng góp xây dựng quê hương.
Giá trị kinh tế, an sinh xã hội của làng nghề là không thể phủ nhận, góp phần giải quyết nhiều vấn đề trong xây dựng NTM như: Tỷ lệ hộ nghèo, thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất. Song quan trọng hơn đó còn là sự kế thừa, tiếp nối, gắn kết các thế hệ, cố kết cộng đồng trở thành một tổng thể thống nhất, không thể tách rời. Thực tế tại các làng nghề, dù kinh tế phát triển đến đâu nhưng dân làng vẫn giữ được truyền thống đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần, dân trí đều được nâng cao, ít xảy ra tệ nạn xã hội... Mặt khác, bản thân những người “sinh ra từ làng”, trong họ đã hun đúc niềm tự hào về nghề quê hương. Thời kỳ hội nhập là cơ hội để họ tìm được hướng đi mới cho sản phẩm làng nghề, nâng tầm phù hợp với xu thế phát triển. Đó là cách các làng nghề tồn tại, vươn cao trong không gian NTM đan xen giữa các giá trị truyền thống và hiện đại.
Có làng nghề là một lợi thế lớn - điều này đã được khẳng định trong kinh nghiệm về đích NTM ở nhiều địa phương khi đã biến thế mạnh sẵn có trở thành “nội lực” để vùng quê chuyển mình, không chỉ đạt đủ những tiêu chí ban đầu của NTM mà còn tạo ra nền tảng để giữ vững, vươn lên mạnh mẽ trong tương lai. Điều này đòi hỏi một tầm nhìn, một sự định hướng đúng đắn cùng sự chung sức, đồng lòng giữa chính quyền và người dân. Song, không phải ở địa phương nào cũng đều tìm ra được cách hồi đáp thỏa đáng cho những thông điệp từ làng nghề và vì thế câu chuyện xây dựng NTM ở đó vẫn còn nhiều nỗi ưu tư…
Kỳ sau: Ứng xử văn minh với di sản làng nghề.
Ý kiến ()