Cách ngày nay 520 năm, vào năm Ất Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 26 (1495), vua Lê Thánh Tông có sáng tác tập “Quỳnh uyển cửu ca”. Đây là tập sách chép lại những bài thơ của vua Lê Thánh Tông có chủ đề ca ngợi những điều tốt đẹp của đạo vua- tôi, ca ngợi các bậc anh tài của đất nước,…
Sau đó, nhà vua tập hợp xung quanh mình 27 vị khoa bảng trong cả nước cùng nhau họa lại. Tập thể tinh túy này, người đương thời gọi là “Tao đàn”- một tổ chức giống như “Câu lạc bộ thơ” (“CLB thơ”) ngày nay (tất nhiên là trí tuệ và cao cấp hơn nhiều). Vì “CLB thơ” đó có 28 vị (vua Lê Thánh Tông và 27 vị trí thức cao cấp), ứng với 28 vị tinh tú trong 4 chòm sao: Thanh long, Bạch hổ, Chu tước, Huyền vũ trên trời, nên người đương thời gọi là “Tao đàn nhị thập bát tú”. Cũng vì vua Lê Thánh Tông là người sáng lập ra “CLB thơ” này nên được quần thần tôn ngài là Tao đàn Nguyên súy. Còn Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận là hai người hoạt động tích cực nhất trong nhóm nên được phong là Tao đàn Phó Nguyên súy. Sái Thuận được phân công làm công việc sửa chữa “dọn vườn” những bài thơ trong nhóm nên được gọi là Tao đàn Sái phu.
Dựa vào các sách “Đại Việt lịch triều đăng khoa thực lục”, “Cổ Mặc danh công truyền ký” và sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, chúng tôi xin cung cấp đến bạn đọc lược sử của các vị người Bắc Ninh có chân trong “Tao đàn” đó nhân đón xuân Ất Mùi 2015.
Từ đường Nguyễn tộc nơi thờ Tiến sỹ Nguyễn Nhân Bị và Tiến sĩ Nguyễn Xung Xác.
1. Nguyễn Nhân Bị: sinh năm Mậu Thìn (1448), người xã Kim Đôi huyện Vũ Ninh (nay là thôn Kim Đôi xã Kim Chân TP Bắc Ninh). Ông đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (đứng thứ 4) khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận thứ 7 đời Lê Thánh Tông (1466) khi mới 19 tuổi. Nguyễn Nhân Bị là người học giỏi, hận vì không trúng khôi nguyên nên không vinh qui. Đến khoa Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1481), khi đã 34 tuổi, ông lại đăng khoa và lại đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (đứng thứ 7).
Nguyễn Nhân Bị từng được cử đi sứ phương Bắc và được thăng lên đến chức Thượng thư bộ Binh. Ông sáng tác nhiều, nhưng chỉ còn lại 12 bài thơ được tập trong tập “Toàn Việt thi lục”.
2. Sái Thuận: tên tự là Nghĩa Hòa, hiệu là Lục Khê, biệt hiệu là Lã Đường, sinh năm Tân Dậu (1441), người xã Liễu Lâm huyện Siêu Loại (nay là thôn Liễu Lâm xã Song Liễu huyện Thuận Thành). Ông xuất thân từ lính chăn voi của nhà vua. Năm 35 tuổi, Sái Thuận đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (đứng thứ 15) khoa Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 đời Lê Thánh Tông (1475). Sau khi thi đỗ, sau 20 năm làm quan ở các cơ quan học thuật của triều đình, ông được thăng lên chức Tham chính sứ Hải Dương.
Khi tham gia “Tao đàn”, ông làm chức Tao đàn Sái phu, sau đó được cử làm Tao đàn Phó Nguyên súy. Ông có tác phẩm “Lã Đường di tập”.
3. Ngô Luân: người xã Tam Sơn huyện Đông Ngàn (nay là thôn Tam Sơn xã Tam Sơn TX Từ Sơn), xuất thân từ chân Quan viên tử, đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (đứng thứ 25) khoa Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 đời Lê Thánh Tông (1475), sau đó lại trúng khoa thi Đông các. Ông làm quan đến chức Thượng thư bộ Công kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau đó về chí sĩ. Ông cùng với Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận được vua Lê Thánh Tông giao cho viết lời bình tập thơ “Quỳnh uyển cửu ca” và cũng là người tham gia soạn văn bia Tiến sĩ ở Văn miếu Thăng Long. Ông là anh Ngô Thầm và là bác của Ngô Miễn Thiệu. Tác phẩm còn 12 bài thơ chữ Hán được chép trong tập “Toàn Việt thi lục”.
4. Nguyễn Xung Xác: sinh năm Tân Mùi (1451), người xã Kim Đôi huyện Vũ Ninh (nay là thôn Kim Đôi xã Kim Chân TP Bắc Ninh). Ngày nhỏ, ông có tên là Nguyễn Nhân Bồng, sau đổi là Nguyễn Trọng Xác. Chữ Xung Xác là do vua Lê Thánh Tông ban tặng. Ông đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (đứng thứ 3) khoa Kỷ Sửu niên hiệu Quang Thuận thứ 10 đời Lê Thánh Tông (1469) khi mới 19 tuổi. Năm Quí Mão, ông được cử giữ chức Hàn lâm Thị độc, kiêm Chưởng viện sự. Ông cũng từng được cử đi sứ phương Bắc. Sau khi đi sứ về, ông được thăng lên chức Tả Thị lang bộ Lại (có sách nói, ông làm quan đến chức Thượng thư và mất ở Quảng Nam trong một lần đi công cán).
Ông là em Nguyễn Nhân Thiếp, Nguyễn Nhân Dư, Nguyễn Nhân Dịch và là cha đẻ của Nguyễn Đạo Diễn. Vì có 5 anh em, cha con cùng làm quan trong triều nên người đương thời ví anh em nhà ông như “ngũ quế” nhà họ Đậu ở Yên Sơn (Trung Quốc). Còn vua Lê Thánh Tông từng nói với cận thần: “Kim Đôi gia thế, chu tử mãn triều” (Gia thế làng Kim Đôi, áo đỏ, áo tía đầy triều).
5. Nguyễn Quang Bật: sinh năm Giáp Thân (1464), người xã Bình Ngô huyện Gia Định (nay là thôn Thường Vũ xã An Bình huyện Thuận Thành). Năm 21 tuổi, ông đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 15 đời Lê Thánh Tông (1484). Sau khi đỗ Trạng nguyên, ông được tuyển vào Đông các và làm chức Hàn Lâm viện Thị thư kiêm Đô Ngự sử. Ông cùng Tiến sĩ Đàm Văn Lễ, người xã Nam Sơn (nay thuộc TP Bắc Ninh) nhận di chiếu của vua Lê Hiến Tông phò giúp Lê Túc Tông lên ngôi vua mà không phò Lê Uy Mục. Vì vậy, sau khi Lê Uy Mục lên ngôi (năm 1505), vị vua này đã đem lòng oán giận, giáng ông làm Thừa tuyên xứ Quảng Nam. Khi Quang Bật lên đường vào Quảng Nam nhậm chức, Lê Uy Mục đã sai người đuổi theo dìm chết ông ở sông Phúc Giang. Khi đó, ông mới 43 tuổi.
Khi vua Lê Tương Dực lên ngôi (năm 1509), triều đình biết Nguyễn Quang Bật bị oan mới truy phong chức tước cho ông và làm văn tế, tặng bức trướng thêu 3 chữ “Trung Trạng nguyên”, đồng thời sức cho dân địa phương lập miếu thờ ông làm Thành hoàng.
Sau khi Nguyễn Quang Bật chết, con cháu ông đổi sang họ Đỗ. Các thế hệ con cháu của dòng họ này, ngày nay vẫn giữ được truyền thống học giỏi của tổ tiên.
Hiện nay, sự nghiệp sáng tác của ông chỉ còn sót lại 9 bài thơ chữ Hán được chép trong tập “Toàn Việt thi lục”.
6. Đàm Thận Huy: sinh năm Quí Mùi (1463), người xã Ông Mặc huyện Đông Ngàn (nay là thôn Hương Mặc xã Hương Mặc TX Từ Sơn), xuất thân Giám sinh. Năm 28 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (đứng thứ 17) khoa Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 21 thời Lê Thánh Tông (1490), làm quan đến chức Dực vận tán trị công thần, Thượng thư bộ Lễ, kiêm Tri Chiêu văn quán, Tú Lâm cục, Hàn Lâm viện Thị độc, Chưởng Hàm Lâm viện sự, Thiếu bảo, Nhập thị Kinh diên, tước Lâm Xuyên bá.
Khi Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê, Đàm Thận Huy về quê, mộ binh làm việc Cần vương chống lại, nhưng vì thế yếu, không địch nổi, bèn uống thuốc độc tự tử. Hôm ấy là ngày mùng 3 tháng Tám năm 1526.
Sau khi nhà Lê trung hưng, Đàm Thận Huy được triều đình xếp vào hàng “Kiệt tiết dực vận tán trị công thần”, cho lập đền thờ, ban cho biển đề “Tiết nghĩa từ” và phong là Phúc thần đại vương. Ông có tác phẩm “Sĩ hoạn châm qui” và 12 bài thơ chữ Hán chép trong tập “Toàn Việt thi lục”.
7. Ngô Thầm: tên tự là Hòa Hiên, người xã Tam Sơn huyện Đông Ngàn (nay là thôn Tam Sơn xã Tam Sơn TX Từ Sơn), đỗ Bảng nhãn khoa Quí Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24 đời Lê Thánh Tông (1493), làm quan đến chức Hàn Lâm viện Thị thư, khi mất được tặng hàm Thái bảo. Tác phẩm còn lại 5 bài thơ chữ Hán chép trong tập “Toàn Việt thi lục”.
Ông là em Ngô Luân, là cha Miễn Thiệu, là ông nội Ngô Diễn, Ngô Dịch, là nhạc phụ Nguyễn Tự Cường.
8. Chu Huân: người xã Ngọc Đôi huyện Vũ Ninh (nay là thôn Ngọc Đôi xã Kim Đôi TP Bắc Ninh), xuất thân Giám sinh, đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (đứng thứ 22) khoa Quí Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24 đời Lê Thánh Tông (1493), làm quan đến chức Thừa chính sứ. Tác phẩm còn lại 6 bài thơ được chép trog tập “Toàn Việt thi lục”.
Như vậy, “Tao đàn” do vua Lê Thánh Tông lập ra có 28 vị thì đất Bắc Ninh có 8 vị tham gia, trong khi tỉnh Hải Dương có 6 vị, Hà Nội (địa giới hiện nay) và Vĩnh Phúc mỗi tỉnh có 3 vị, Bắc Giang có 2 vị, Nam Định và Thái Bình mỗi tỉnh có 1 vị.
Ý kiến ()