Về Trung tâm điều dưỡng thương binh Thuận Thành những ngày này, ở nơi tưởng chừng chỉ còn lại những hồi ức của chiến tranh, của mất mát vànhững đau đớn thể xác - nơi những người lính đã kinh qua “thần chết” và chẳng còn điều gì trên đời khiến họ “run rẩy” được nữa. Thế nhưng, có biết bao điều kỳ diệu đang hiện hữu, mang những đau thương kia đi xa và khỏa lấp trái tim người thương binh bằng tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt. Nơi mà giờ chỉ còn lại… tình yêu.
Tuổi đôi mươi chưa một lần hò hẹn….
Giữa cái nắng oi nồng của những ngày hè tháng 7, căn phòng chừng 20m2 tại Trung tâm điều dưỡng thương binh huyện Thuận Thành của vợ chồng thương binh Nguyễn Văn Mão, sinh năm 1949 và vợ là Nguyễn Thị Chính sinh năm 1955 đều ở Tam Quan, Tam Đảo, Vĩnh Phúc... càng như bí bách hơn. Những vết lở loét phần nửa dưới cơ thể khiến đôi chân vốn không còn nguyên vẹn của ông lại càng trở lên nhức nhối, xót xa. Nhìn cách ông chống chọi với cơn đau vẫn mỉm cười chào tôi hiền hòa khiến lòng tôi thắt lại. Từng nghe, từng thấy nhưng chưa khi nào tôi được chứng kiến nỗi đau chiến tranh gần đến thế.

Lúc rảnh dỗi, ông Tư và bà Phương thường ôn lại kỷ niệm qua những bức ảnh gia đình, đồng đội
Nhẹ nhàng đắp miếng vải mềm lên vết thương của ông Mão, đôi mắt bà Chính thoáng buồn khi nhắc nhớ lại những ký ức đã qua. Lần về những trang ký ức của tuổi thanh xuân năm 1974, khi anh lính trẻ Nguyễn Văn Mão vừa tròn 25 tuổi vừa đẹp trai, phong độ, cô hàng xóm Nguyễn Thị Chính lúc ấy cũng đang ở cái tuổi 19 xuân thì tươi đẹp của người con gái mới chính thức được gả cho nhau, chẳng qua hẹn hò, cũng chưa có thời gian tìm hiểu. Chưa đầy một tháng, ông Mão phải quay trở lại chiến trường. Trải qua những năm tháng chờ đợi dài đằng đẵng, ngày họ gặp lại nhau cuối cùng cũng đến. Bà Chính bồi hồi:“ Không lâu sau khi anh ấy vào chiến trường, tôi nhận được tin chồng bị thương nặng trên đường hành quân ra Bắc. Trái tim tôi như thắt lại, đôi chân muốn khuỵu ngã nhưng vẫn gượng dậy để đến với chồng bởi tôi hiểu lúc này anh ấy cần tôi.”
Bỏ lại ruộng vườn, nhà cửa, bà Chính khăn gói cùng chồng đi từ viện này sang viện khác. Vết thương ở phần cột sống khiến cho đôi chân của ông Mão bị liệt hoàn toàn nên việc chăm sóc gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, bản thân ông Mão lúc này đã bị nhiễm chất độc da cam lại không được chữa chạy kịp thời khiến cho đôi chân dần hoại tử. Năm 1977, ông Mão được chuyển về trung tâm điều dưỡng Thương binh Thuận Thành. Những lúc trái gió trở trời, vết thương vừa đau, vừa ngứa ngáy, khó chịu lại thêm tâm lý mặc cảm, ông Mão cũng đôi lần to tiếng với vợ, nhưng bà Chính bảo: “Tôi hiểu tính anh ấy. Nóng nảy vậy thôi, chứ ông ấy sống tình cảm lắm. Khi thấy chồng như thế, tôi biết anh ấy đang đau lắm nên càng thương hơn. Bình thường, chính anh ấy là người luôn động viên hai vợ chồng vượt qua khó khăn, nghĩ đến những điều tốt đẹp để sống”.
Hơn một lần căn phòng lại rơi vào sự yên lặng đến xé lòng khi bà Chính nhắc đến chuyện về những đứa con. Chiến tranh đã khiến ông Mão và bà Chính không có được thiên chức cao cả ấy. Lắm khi hai vợ chồng cũng nghĩ đến việc nhận con nuôi để nương tựa tuổi già, nhưng rồi bà sợ mình phải san sẻ tình cảm, không thể toàn tâm toàn ý chăm sóc chồng, vậy là bà lại gạt nước mắt, tỏ ra can đảm trước mặt chồng mà quyết tâm không nhận con nuôi. Sâu thẳm trái tim người thương binh ấy Nguyễn Văn Mão, chúng tôi hiểu ông thương vợ nhiều lắm và ông cũng đang rất đau, nỗi đau đâu chỉ trên phần da thịt.
Chuyện tình giữa chàng thương binh nặng và cô điều dưỡng
Bước vào ngôi nhà nhỏ của thương binh 1/4 Phạm Văn Tư sinh năm 1955 tại Đoan Hùng (Phú Thọ) và nữ hộ lý Nguyễn Thị Thanh Phương sinh năm 1956, xã Chí Dân, Khoái Châu (Hưng Yên) tôi thoáng ngạc nhiên khi thấy một người đàn ông đang cần mẫn, hì hụi bên chiếc bàn nhỏ với hàng tá đồ sửa chữa các thiết bị gia dụng. Người đàn ông năm nào gan dạ trong chiến đấu, bị thương dẫn đến teo hai chi dưới không ngồi đợi được chăm sóc, được báo ân mà đang tự mưu sinh bằng chính đôi tay của mình.
Ông Tư trước đây là lính công binh thuộc Sư đoàn 320, chiến đấu ở Biên giới Tây Nam (1977 – 1979). Năm 1979, ông bị thương ở mặt trận Campuchia. Trong một lần làm nhiệm vụ cùng đồng đội, không may kíp mìn nổ, khiến nhiều người bị thương, trong đó, ông bị nặng nhất khi nhiều mảnh bom đạn nhỏ găm vào người, xuyên qua cột sống cũng khiến ông mất khả năng đi lại. Giữa bao hoài bão và giấc mơ còn dang dở,vết thương ấy đã khiến chàng trai trẻ rơi vào tuyệt vọng. Ông không báo tin về nhà, chỉ một mình âm thầm chịu đựng. Cũng từ ấy, ông không cho mình quyền được yêu, được hạnh phúc hay mang lại hạnh phúc cho ai khác.

Vượt qua bao khó khăn, thử thách giờ đây ông Yểng và bà Lịch đã hài lòng với những gì mình đang có
Năm 1981, ông chuyển về Trung tâm điều dưỡng thương binh để điều trị. Không thể ngờ rằng, chính tại nơi đây, số phận để cho ông gặp gỡ nữ hộ lý Nguyễn Thị Thanh Phương để giúp ông khép lại những tự ti, mặc cảm, mở ra cánh cửa hạnh phúc cùng người phụ nữ giàu tình yêu thương. Ngày về ra mắt hai gia đình đều ngỡ ngàng và tỏ ý không đồng tình. Gia đình ông Tư không muốn con trai làm gánh nặng cho người khác, sợ lại lỡ dở đời người con gái hồng nhan. Còn gia đình bà Phương lại chẳng muốn con cả đời vất vả, gồng gánh cả nhiệm vụ của người đàn ông. Nhưng tình yêu chân thành, sự khát khao đến với nhau của hai trái tim trẻ khiến gia đình đồng ý, một đám cưới nhỏ diễn ra dù thiếu thốn vật chất nhưng lại đong đầy sự mến mộ và chúc phúc của bạn bè, người thân.
Mải mê nói chuyện với tôi, nhưng chốc chốc ông Tư lại nhìn vào chiếc đồng hồ đã qua hơn 10h sáng. Những tưởng ông đang ngóng một vị khách đặc biệt nào đó, tôi mới hỏi han, ông phân trần: “Giờ này mà bà ấy vẫn chưa đi làm về, thời tiết nắng nóng quá. Mọi khi tầm này bà ấy về nhà rồi, chắc hôm nay làm cố cho hết việc. Đấy, từ ngày lấy tôi đến giờ, bà ấy thiệt thòi lắm, làm hết những công việc nặng nhẹ trong nhà, chỉ khi nào lo xong cho chồng con mới an tâm nghỉ ngơi”.
Rồi ông nhớ lại cách đây vừa tròn 28 năm, khi ấy ông nhận được tin vui tới không ngủ khi bà mang bầu sau 4 năm đám cưới. Tuy vậy, công việc của bà Phương vẫn khá vất vả, ngoài đồng lương hộ lý e hẹp, bà chăn nuôi, cấy lúa, trồng rau…để có thêm thu nhập. Ông Tư nhớ lại: “ Có lần bà ấy xách nước từ khu tập thể vào nhà để dùng, không may bị trượt chân rồi ra huyết, hai vợ chồng tưởng mất con, cứ ôm nhau khóc, may mắn trời thương con không vấn đề gì. Nghĩ lại, nếu lúc ấy hai mẹ con có bề nào, tôi giận bản thân mình lắm”.
Lúc này bà Phương vừa về tới, tay cầm bó rau xanh mà bà tự tay chăm sóc, ân cần hỏi han công việc buổi sáng của ông Tư. Khi bà ngồi xuống ghế, ông khẽ quay hướng chiếc quạt về phía người vợ hiền. Nhìn ông bà như cặp vợ chồng son mới cưới, đầy tin yêu và hạnh phúc. Sống với nhau hơn 30 năm, ngoài những phút giây đầm ấm, cũng có khi trái gió trở trời, vết thương đau nhức ông lại cáu. Đôi khi nhìn vợ tất bật lo toan mà bản thân không giúp được bà, ông cũng tự trách mình rồi thái độ khó chịu với vợ con. Lúc ấy bà hiểu hết, chỉ im lặng để chồng bình tĩnh lại. “Cha tôi cũng là thương binh nên tôi hiểu được sự hy sinh, can trường và cả những nỗi sâu thẳm của người lính. Họ đã cho đi quá nhiều, và họ đáng được nhận lại tình yêu,sự cảm thông, chia sẻ cho vơi bớt nhọc nhằn”. Rồi bà lại dẫn chứng: “Bình thường ông hiền và thương vợ con lắm. Thương tôi vất vả, ông ấy làm thêm nghề sửa chữa đồ điện, có đêm phải thức thâu đêm để kịp trả hàng cho khách. Tôi đi làm về muộn ông cũng làm những việc nhà phụ vợ. Kể cả những lúc tôi vắng nhà, ôngcũng biết lấy sữa pha cho con uống rồi dỗ dành bế ẵm”...
Đến bây giờ, khi ông bà đang có một gia đình trọn vẹn, một người con trai đã gần 30 tuổi, đi học và đi làm với công việc ổn định, hiếu thảo với bố mẹ, hai vợ chồng cũng chẳng dám mong gì hơn.
Hạnh phúc đơm hoa
Cũng trên con đường chạy qua những tổ ấm ở Trung tâm, chúng tôi dừng chân trước của một ngôi nhà đầy hoa đang nở. Hạnh phúc của chủ nhân ngôi nhà ấy, ông Phạm Văn Yểng và bà Nguyễn Thị Lịch cũng đang đơm hoa kết trái với niềm vui đến từ những đứa con thành đạt. Thấy chúng tôi tới, bà Lịch vội vã dọn lại đồ chơi còn sót lại những đứa cháu về chơi cuối tuần vừa rồi. Bà bảo, bây giờ ông bà thảnh thơi lắm, ngày ngày sau khi chăm sóc, vệ sinh cho ông là lại quay ra trồng hoa, trồng rau. Mấy năm trước, ông vẫn còn được Học viện Chính trị của Bộ Quốc phòng mời đi nói chuyện, kể cho sinh viên nghe về những trận đánh, những hy sinh của bộ đội trong quá khứ. Giờ sức khỏe yếu hơn, ông để dành những câu chuyện ấy kể cho các cháu nội, ngoại.
Hiện tại của những ngày tháng tươi vui như chẳng còn phảng phất dấu vết những nhọc nhằn năm xưa. Đó là vào tháng 6 năm 1976, ông được đưa về Khu điều dưỡng thương binh nặng Thuận Thành Tại đây chàng thương binh quê Mỹ Đức gặp cô hộ lý người Ninh Xá Nguyễn Thị Lịch dịu dàng. Qua những ngày tháng kề cận chăm sóc, có điều kiện tìm hiểu, hai người cảm mến nhau lúc nào không hay. Quyết định đến với nhau mặc dù vấp phải sự phản đối gay gắt của gia đình bà Lịch, hạnh phúc lớn đầu tiên của hai ông bà khi sinh người con trai cả vào năm 1978 và hai năm sau có thêm một người con gái. Lúc ấy, công việc hộ lý của bà Lịch chỉ được nhận đồng lương ít ỏi, trong khi ông thương tật không thể làm được gì lại thường xuyên phải dùng thuốc men, một mình bà Lịch gồng lên để lo toan cho gia đình nhỏ. Ngoài giờ làm bà Lịch phải đi lấy thịt lợn ở Hà Nội về bán từ chiều hôm trước. Cứ 3 giờ sáng hôm sau dậy một mình mổ lợn và pha thịt sẵn cho chồng bán trước cửa khu điều dưỡng rồi bắt đầu ngày làm việc. “Trong suốt năm tháng cơ hàn ấy, dù thường xuyên chịu đau đớn do mảnh đạn găm vào cột sống vẫn còn nằm đấy, nhưng ông ấy không bao giờ to tiếng, cáu gắt với vợ con. Bất cứ việc gì làm được để giúp vợ ông đều sẵn sàng san sẻ với tôi. Ngoài thời gian ấy, ông lại về dạy học cho các con, khuyên bảo con từng chút một”. Sạp thịt lợn ấy cùng tình yêu và nghị lực sống của bố mẹ chính là tấm gương, là động lực để hai người con ông bà - những thế hệ thời hậu chiến vươn lên trong cuộc sống. Hai người con của ông bà sau khi hoàn thành đại học đều trở thành cán bộ ngân hàng của tỉnh, có điều kiện về kinh tế và hết lòng quan tâm tới bố mẹ.
Gần 40 năm trôi qua, “xóm thương binh” đã xuất hiện thế hệ thứ hai, thứ ba. Bước qua những ngày vật lộn lo toan cơm áo gạo tiền, những khó khăn do bệnh tật, hoàn cảnh, rất nhiều cặp vợ chồng ở Trung tâm nuôi dạy con cái nên người. Điều đó, ngược lại là động lực tinh thần lớn lao để những người mang trong mình vết thương chiến tranh quên đi nỗi đau dày vò cơ thể.
Rời Trung tâm điều dưỡng thương binh Thuận Thành khi chiều đã muộn, một ngày ở nơi đây khiến chúng tôi thấm thía được nỗi đau, sự hy sinh, tình yêu, lòng bao dung của những con người thể xác không còn lành lặn nhưng ý chí lại vô cùng phi thường. Họ đã truyền lại cho thế hệ chúng tôi nhựa sống căng tràn, niềm cảm hứng, sự tin yêu vào cuộc sống và một thái độ khác để làm những việc có ích hơn với tuổi trẻ mình đang có.
Thuận Thành tháng 7 năm 2018
Ghi chép của Nguyễn Hoa- Huyền Thương
Ý kiến ()