Chiến lược là 1 hệ thống các nguyên tắc, quan điểm, kế hoạch, biện pháp, nhân lực, tổ chức, để thực hiện những mục tiêu định sẵn. Trong lĩnh vực kinh tế, chiến lược phát triển được coi là chuẩn mực mà bất kỳ ngành kinh tế nào, lĩnh vực nào, địa bàn nào, khi làm kinh tế phải tham chiếu, sao cho việc phát triển cá thể chỉ được phép làm dư bội mục tiêu chung, tuyệt nhiên không được làm cản trở mục tiêu đó.
Chiến lược là 1 hệ thống các nguyên tắc, quan điểm, kế hoạch, biện pháp, nhân lực, tổ chức, để thực hiện những mục tiêu định sẵn. Trong lĩnh vực kinh tế, chiến lược phát triển được coi là chuẩn mực mà bất kỳ ngành kinh tế nào, lĩnh vực nào, địa bàn nào, khi làm kinh tế phải tham chiếu, sao cho việc phát triển cá thể chỉ được phép làm dư bội mục tiêu chung, tuyệt nhiên không được làm cản trở mục tiêu đó.
Bắc Ninh đang trong quá trình CNH-HĐH và đã thu được những thành tựu lớn. Kết quả này xuất phát từ kế hoạch ngắn hạn (1 năm), trung hạn (5 năm), dài hạn (10 năm) hợp lý, cùng với sự nỗ lực cao độ của toàn dân để thực hiện nó. Tuy nhiên quá trình thực hiện cũng bộc lộ một số khiếm khuyết: Việc phát triển kinh tế ở tỉnh thường đòi hỏi bức xúc, nhanh, trong khi công việc hoạch định của quốc gia, của vùng chưa làm trước được. Điều này dễ dẫn đến quá trình phát triển kinh tế của tỉnh thiếu gắn kết hoặc lệch pha trong cơ cấu kinh tế chung, trong phân công chung. Áp lực, sự đòi hỏi tiến nhanh, tạo diện mạo mới trong kinh tế đã nảy sinh khuynh hướng phát triển rộng, thiếu bề sâu, thiếu các căn cứ khoa học để sàng lọc, chọn chất lượng cao. Các con số phản ánh tăng trưởng mạnh, tỷ lệ so sánh cao, so với mức tăng chung hoặc so với nghị quyết đã hạn chế các ý kiến phản biện hợp lý, thêm vào đó những khiếm khuyết không tác động ngay, khiến cả người quản lý và người thực hiện yên tâm với kết quả thu được. Có rất nhiều nhà đầu tư kể cả sơ cấp và thứ cấp, nhà đầu tư nào cũng minh chứng tốt nhất cho hình ảnh của mình với các cam kết “đánh” vào mong muốn của ta. Trong khi nhiều cơ quan chức năng lại chỉ giúp tỉnh được phần việc riêng chuyên ngành. Do đó xuất hiện những đột biến trong đầu tư không phải lúc nào cũng cân đối theo định hướng.
Từ thực trạng kinh tế tỉnh ta, đòi hỏi phải tổng kết, phân tích sâu sắc những cái đã được, những trở ngại, kể cả non yếu trong phát triển kinh tế để có 1 chiến lược phát triển kinh tế thời kỳ mới.
Để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh, cần gắn chặt với tổng sơ đồ phát triển của cả nước, của cả vùng và sự phân công của cấp trên cho tỉnh. Việc xác định này liên quan đến tầm nhìn và đặt vị trí kinh tế Bắc Ninh trong toàn bộ nền kinh tế đất nước. Chỉ có như vậy chúng ta mới khắc phục được sự phân tán, chồng chéo, giằng co và tăng tính chủ động, ổn định.
Phát huy cao nhất lợi thế mọi mặt của tỉnh. Về vấn đề này cần thấy rõ là lợi thế không bất biến, có cái hôm nay là lợi thế thì mai đây có thể trở thành gánh nặng, ví như lao động giản đơn giá rẻ chẳng hạn. Hoặc như lợi thế giao thông cũng sẽ dần mất đi, một khi mạng lưới giao thông của đất nước ngày càng hoàn chỉnh.
Điểm nổi bật và lâu dài mô tả ưu thế của tỉnh chính là địa kinh tế và nhân lực. Lợi thế của chúng ta dễ hấp dẫn nhà đầu tư nhưng lại dễ sai sót trong quá trình tiếp nhận, nhất là giai đoạn ban đầu.
Tính khả thi của chiến lược là đòi hỏi cả khi xây dựng chiến lược và từng bước thực hiện chiến lược đó. Về vấn đề này chúng ta cần đặc biệt chú ý xây dựng được sơ đồ SWOT, trong đó bao hàm các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thực hiện chiến lược phát triển tổng thể và chiến lược phát triển của từng cá thể. Xét trên góc độ lý thuyết và thực tế đều có điểm nhấn quan trọng, quyết định là: vốn-kỹ thuật-công nghệ-nguồn lao đồng… tổ chức thực hiện.
Hoàn thiện chính sách, quy định của tỉnh, theo đó tạo hành lang pháp lý để quá trình thực hiện suôn sẻ. Các quy định phải nằm trong giới hạn cho phép của luật pháp, cố gắng ổn định để các cơ sở sản xuất yên tâm.
Tạo môi trường thân thiện, kích thích quá trình thực hiện chiến lược. Nếu làm tốt vấn đề này sẽ tạo sự đồng thuận cao, tránh được các xung đột không đáng có.
Môi trường ở đây chính là môi trường xã hội, là các yếu tố phi kinh tế nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến thực hiện chiến lược phát triển, trọng tâm là cải cách hành chính.
Chiến lược phát triển kinh tế không phải là quá cứng, bất động khô cứng mà có thể điều chỉnh một khi mặt bằng kinh tế-xã hội thay đổi, khi các yếu tố cấu thành chiến lược có biến động cao.
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế cần có lộ trình hợp lý vì chiến lược được xây dựng cho 1 thời gian dài, nên mức độ thực hiện từng năm có khác nhau. Nếu chiến lược cho cả thời kỳ 2011-2020 thì trong mỗi năm trong 10 năm phải làm gì, lộ trình hợp lý, phân khai, phân kỳ hợp lý sẽ bảo đảm để chiến lược được thực hiện vững chắc, không nhất thiết theo bình quân hoặc tốc độ giới hạn chủ quan.
Các ngành của tỉnh, các huyện, thị, thành, các đơn vị lớn phải có chiến lược phát triển riêng, phục vụ chiến lược của tỉnh. Hiện tại đã có một số đơn vị có chiến lược phát triển hoặc kế hoạch dài hạn mang tính chiến lược như: Công ty Điện lực, Bưu điện, Công ty Dabaco, thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn. Vấn đề này cần được mở rộng, nhưng thiết thực, tránh hình thức.
Cần có quy định rõ ràng hệ thống các tiêu chí, thể hiện lượng hóa mục tiêu của chiến lược. Ví như: tiêu chí của tỉnh công nghiệp, vấn đề tăng trưởng gắn liền với chất lượng tăng trưởng, vấn đề bảo vệ môi trường, đời sống người lao động… Trong từng lĩnh vực chuyên môn càng cần quy định các chỉ số kinh tế, kỹ thuật để hướng dẫn quá trình thực hiện.
Xây dựng, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực đủ sức thực hiện chiến lược. Đây là việc trọng yếu của toàn xã hội. Mấu chốt của vấn đề nhân lực được khoanh rõ ở 2 khu vực: Gián tiếp và trực tiếp. Khu vực gián tiếp gồm những người công tác trong hệ thống chính trị, các cơ quan nhà nước và gián tiếp ở các đơn vị. Mục đích cải cách hành chính là nhằm nâng cao trách nhiệm công vụ của công chức gián tiếp. Đã đến lúc vai trò của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp không chỉ thuần túy lãnh đạo cơ quan hành pháp mà còn đảm đương trọng trách của Tổng giám đốc các loại hình sản xuất kinh doanh. Điều này đặt ra yêu cầu rất cao của các chức danh cán bộ. Nguồn nhân lực trực tiếp chính là tay nghề của lực lượng lao động sản xuất. Hiện chúng ta đang yếu về vấn đề này và còn là thách thức lâu dài.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, mở rộng hoạt động phản biện và nâng cao vai trò giám định xã hội. Vấn đề quan trọng là tổ chức để các công việc trên được thực hiện trôi chảy. Đã có nhiều bài học: nhờ phản biện của dư luận mà tránh được những việc không đáng xảy ra như: xây dựng 5 cổng chào ở thủ đô, lát đá xanh quanh hồ Gươm, nhà máy sản xuất thép ở Đà Nẵng…
Công việc phản biện được thực hiện qua các tổ chức, cá nhân am hiểu và họ phải chịu trách nhiệm về chất lượng phản biện. Công việc giám sát là cả quá trình thực hiện 1 đề án, dự án. Xã hội cần tạo điều kiện tốt nhất để xã hội làm tốt việc giám sát.
Trong tất cả các dự thảo báo cáo được trình ở đại hội cấp huyện, thị, thành, tỉnh đều có cấu trúc truyền thống, có số liệu minh họa, được phê duyệt để mang tính chiến lược, cần chỉnh sửa, bảo đảm sao cho kinh tế của cả tỉnh là hợp cộng các huyện, thị, thành và được thực thi tốt nhất.
Cần xử lý, giải quyết mọi vướng mắc khi thực hiện chiến lược, không để ùn tắc. Quá trình phát triển của mọi hình thái kinh tế-xã hội đều tuân theo quy luật: phát triển không đều. Vì thế sự nhạy cảm, sáng suốt chính là nắm bắt kịp thời các động thái biến thiên để kịp đưa ra các quyết sách hợp lý.
Tỉnh ta đang đứng trước vận hội mới, trước những bước ngoặt quan trọng, nhiệm kỳ 2011-2015 là khởi đầu của giai đoạn phát triển cao. Nhiều kỳ vọng, nhiều niềm tin, tất cả đều tâm nguyện, sẵn sàng hành động, góp công, góp sức để thực hiện các mục tiêu mà đại hội Đảng các cấp đặt ra từ chiến lược kinh tế có căn cứ khoa học.
Nguyễn Hùng Quán
Ý kiến ()