Dân ca Quan họ Bắc Ninh - đặc sản bất biến như mạch nước ngầm xuyên thời gian, kết tinh, cộng cảm và lưu dấu bản sắc đặc trưng về miền đất văn hiến, cách mạng: Bắc Ninh - Kinh Bắc. Văn hóa Quan họ vẫn đang tuôn chảy, mênh mông trong đời sống vật chất, tinh thần cũng như trong cốt cách mỗi người dân nơi đây. Những làn điệu dân ca đằm thắm, trữ tình ấy đã khiến cho bao người từng một lần đặt chân đến miền Kinh Bắc không thể không nhớ và chẳng thứ gì có thể buộc người ta quên nó được. Ở miền Kinh Bắc, Quan họ đã được sinh ra, tồn tại và phát triển hiển nhiên đến mức không có không được. Vì thế, sẽ chẳng bao giờ trên đất này thiếu Quan họ dù cho đó chỉ là giả thiết…
“Chiếc nôi ngàn câu Quan họ”
Mỗi vùng miền thường có một thứ gì đó gợi nhớ, khiến người ta không thể quên được. Nếu Phú Thọ có hát Xoan, Huế có Nhã nhạc cung đình, Tây Nguyên có Cồng Chiêng thì Bắc Ninh-Kinh Bắc có dân ca Quan họ. “Nghề chơi Quan họ” xuất hiện và phát triển ở Bắc Ninh rồi cũng từ Bắc Ninh mà lan tỏa đến khắp muôn nơi. Hàng trăm năm đã trôi qua, nghề chơi Quan họ giờ đây đã trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, là niềm tự hào, kiêu hãnh của tất cả người dân đất Việt, là sự khát khao, ngưỡng mộ của nhân dân toàn thế giới. Tuy rộng mở về không gian, phong phú về hình thức trình diễn, xuất hiện đa dạng các yếu tố mới để phù hợp với thời đại hội nhập nhưng Quan họ vẫn mãi mãi là một đặc sản văn hóa bất biến của vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc. Và chỉ ở chiếc nôi của mình thì cái gốc, chất “vàng ròng” vốn quý trong Quan họ mới bén rễ, xanh cây, trổ lộc, đơm hoa và tỏa hương thơm ngát.
Người Bắc Ninh bao năm nay vẫn có một cái tên gọi chung là anh hai, chị hai Quan họ. Chẳng biết tự bao giờ, do ai đặt mà cái tên chung thân thương, trìu mến ấy trở thành cách gọi quen thuộc, ngọt ngào đến thế. Người Bắc Ninh xa quê thường dây dưa nhớ và khát khao được nghe một làn điệu Dân ca Quan họ quê mình. Xao xuyến, bồi hồi về hình ảnh những liền anh, liền chị trong áo mớ ba mớ bảy, nón thúng quai thao, ô lục soạn dùng dằng, lưu luyến nơi con đê đầu làng…
Chẳng thể hình dung, nếu Bắc Ninh mà thiếu đi những buổi sinh hoạt văn hóa Quan họ, vắng hẳn những cuộc gặp gỡ, giao duyên, không còn được thưởng thức những canh hát thâu đêm thì Bắc Ninh sẽ ra sao? Nào đâu phải riêng người trong vùng mà ai đó đã từng đến, từng ở, từng yêu miền Kinh Bắc cũng không thể không yêu Quan họ. Thói quen đặt chân đến Bắc Ninh là phải nghe Quan họ mà nhất định phải là Quan họ ngồi chiếu, nhìn nhau hát những bài cổ, lề lối, không nhạc đệm, thế mới đúng nghĩa là “người nghiện Quan họ”. Thói quen ấy không thể bỏ được với bất cứ ai đã trót một lần gửi tình yêu vào Quan họ. Mộc mạc, chân chất, giản dị thế thôi mà tinh túy, thâm trầm, sâu sắc và thật khó lòng từ bỏ.
Nhà nghiên cứu Quan họ Lê Danh Khiêm-người thủy chung như nhất, vốn nặng nghĩa, nặng lòng với Di sản văn hóa của quê hương hơn một lần giãi bày, chia sẻ: Nhiều vùng, nhiều tỉnh khác không có Quan họ nhưng người ta đâu có buồn. Ở Bắc Ninh, ngoài Quan họ cũng còn vô vàn nét đẹp văn hóa truyền thống khác. Song, Quan họ là nét văn hóa đặc trưng, tiêu biểu nhất, kết tinh phẩm chất Anh hùng và trữ tình của con người nơi đây. Ngoài ra, Dân ca Quan họ còn phản ánh đầy đủ và sâu sắc những mối quan hệ đặc thù của người Bắc Ninh-Kinh Bắc. Đó là mối quan hệ giữa người với người trong một cộng đồng làng xã và giữa các làng xã với nhau.
Một yếu tố bất biến trong mối quan hệ giữa những người Quan họ, đó là tình cảm trong sáng, chân thực, gắn bó thủy chung, cưu mang giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống thường nhật. Chính vì vậy, nếu như Bắc Ninh không có Quan họ thì chẳng những rất buồn mà còn ảnh hưởng đến cả lối sống, hành vi ứng xử của người miền Quan họ. Và giả thiết đó nhất định không bao giờ xảy ra. Bởi, tôi, chúng ta và tất cả người Bắc Ninh đều hiểu rằng: nếu không có Quan họ thì chẳng phải là Bắc Ninh!
“Nghề chơi” còn mãi…
Dân ca Quan họ sinh ra ở Bắc Ninh từ rất lâu rồi. Xưa, các cụ gọi là đi chơi Quan họ chứ không như cách gọi bây giờ là hát Quan họ. Sau những ngày lao động mệt mỏi, tối đến rủ nhau đi chơi Quan họ là như khỏe trở lại, tinh thần phấn chấn hẳn ra. Nhiều hôm, say sưa chơi đến sáng mới về đi làm nhưng ngày hôm sau vẫn nguyên vẹn cái tính “ham chơi” say nghề ấy. Lòng ham thích biến thành tình yêu gắn bó máu thịt và vẫn không ngừng chảy trong từng đường gân, mạch máu các cụ cả khi tuổi đã “gần đất xa trời”…
Dừng chân nơi đầu làng Diềm, vẳng nghe câu Quan họ lạ lắm, chưa một lần thưởng thức, chúng tôi từ từ bon xe theo tiếng hát, xuyên vào ngõ nhỏ, giọng ca càng lúc càng rõ hơn. Chạm cổng ngôi “nhà chứa” của gia đình nghệ nhân Ngô Thị Khu. Qua khe cửa cổng khép hờ, bắt gặp hình ảnh hai bà cụ lưng còng, chân đất, ngồi phệt dưới thềm đá trước cửa nhà, ngoảnh mặt vào nhau mà ca. Say sưa, sống động và đẹp lạ thường, thế mới biết cái nghề chơi Quan họ mới đam mê làm sao. Hỏi ra mới biết đó là hai nghệ nhân già Ngô Thị Khu và Ngô Thị thả việc đồng” hai cụ đến thăm nhau, cùng nhai trầu, “hồi cố” cái thời xuân sắc ham chơi Quan họ quên cả việc nhà, bỗng nhớ ra câu hát và thử cất lại giọng.
Thấy chúng tôi bước vào, các cụ ngừng lời, móm mém cười: “Già rồi, giờ muốn hát để rền, nền, nảy khó lắm”. Đúng là chẳng thể nói khác được vì chơi Quan họ, sống với Quan họ, “đàn đúm” với Quan họ từ lúc “Răng non trắng tựa như ngà/ Đến nay trơ lợi còn ca rõ nhời” thì hỏi làm sao có thể vang-rền-nền-nảy như thuở xuân sắc được! Ấy vậy nhưng chất tinh túy của Quan họ lại nằm ở trong hai giọng mộc, khô với một sức cuốn hút lạ lùng đó và gợi mở về không gian Quan họ đậm đặc truyền thống xưa kia của những liền anh, liền chị đã dành trọn cả cuộc đời say nghề, nuôi nghề và nay lại truyền nghề để Quan họ trường tồn và lan tỏa.
Từ khi giá trị của văn hóa Quan họ được UNESCO khẳng định và quảng bá rộng mở thì phong trào ca hát Quan họ còn sôi nổi, nhộn nhịp và phát triển nhanh mạnh hơn. Bây giờ, không riêng mùa Xuân hay trong ngày hội làng mà những hoạt động giao lưu, biểu diễn Quan họ diễn ra liên tục, quanh năm suốt tháng, hết làng này qua làng khác. Không khí giao lưu sôi động ấy triền miên diễn ra từ năm này qua năm khác, chưa bao giờ thiếu vắng mà còn phong phú, tưng bừng hơn rất nhiều… Không gian văn hóa Quan họ cũng không gói gọn trong 49 làng Quan họ gốc như xưa mà còn phát triển, ra đời hàng trăm làng Quan họ mới. Sơ sơ trong tỉnh cũng có đến hơn 150 CLB Quan họ với hàng chục nghìn hội viên. Họ tham gia CLB là bởi lòng yêu thích, say câu Quan họ mà tự nguyện tham gia chứ không phải vì tài năng ca hát. Và đặc biệt, nếu Quan họ của các cụ xưa kia vốn là một nghề chơi nên không chỉ mất thời gian mà còn tốn kém tiền bạc; người hát Quan họ vừa là người nghe, người thưởng thức để thỏa mãn niềm say mê, yêu thích thì ngày nay, một điều mà ai cũng biết nhưng chưa nói, ấy là ở những khía cạnh nhất định, Quan họ đã trở thành một nghề nuôi sống rất nhiều người dân Bắc Ninh hiện nay…
Cuộc sống không ngừng xoay chuyển theo quỹ đạo của nó, văn hóa Quan họ cũng thế, cũng có quy luật phát triển nội tại vốn có và tất yếu. Ngoài duy trì những hình thức diễn xướng truyền thống, Quan họ cũng xuất hiện thêm nhiều hình thức mới, có thể được công chúng yêu thích, đón nhận, cũng có khi dư luận chưa bằng lòng… Nhưng, những điều tốt đẹp vẫn không thể mất đi một cách dễ dàng cho dù thời cuộc có khiến những nét đẹp đó ẩn náu kỹ hơn và giá trị nhân văn cốt lõi của Quan họ vẫn vẹn nguyên trong cộng đồng làng xã, thẩm thấu mãi vào lối sống, hành vi ứng xử và tình cảm con người miền Bắc Ninh-Kinh Bắc.
Nếu mà không Quan họ, Bắc Ninh ơi có buồn…?! Câu thơ ấy được thốt lên vì quá yêu Quan họ. Tác giả của nó cũng đủ hiểu rằng, giả thiết đó nhất định không bao giờ xảy ra. Bởi, dù vạn vật có đổi thay thì Quan họ vẫn là một “nghề chơi” sống mãi trong cộng đồng dân cư miền đất Bắc Ninh – Kinh Bắc cho đến muôn đời…/.
Bài, ảnh: Thuận Cẩm
Ý kiến ()