Hoà bình lập lại, bên bờ Nam sông Đuống (làng Đông Khê, xã Song Hồ, Thuận Thành) có một người thương binh chống nạng trở về quê hương xây dựng tổ ấm gia đình. Sau gần 40 năm xoay vần với cuộc mưu sinh đầy gian khó, vất vả, hôm nay, người thương binh ấy đã trở thành một lão VĐV Paragame môn Bóng bàn với bộ sưu tập huy chương đủ màu, là niềm mơ ước của biết bao người khác. Tên ông – Hà Quý Phiến, thương binh 2/4 đã vinh dự nhiều lần bước lên bục nhận giải thưởng trong các hội thi thể thao dành cho người khuyết tật hàng năm...
Một chân gửi lại chiến trường
Mang trong mình 8 mảnh đạn, một chân đã để lại chiến trường, đó là hậu quả của 15 lần ông Phiến bị thương. Nhớ lại trận chiến đấu ác liệt ở chiến trường Tây Nguyên năm xưa đã buộc ông phải tự tay chặt đứt chân mình, ông Phiến xúc động, hồi tưởng: “Ngày đó, đơn vị của tôi có nhiệm vụ bảo vệ đường Trường Sơn. Tôi thuộc Đại đội 75 với gần 200 người, chia thành nhiều tiểu đội độc lập, bảo vệ Binh trạm Bắc Tây Nguyên, phụ trách khoảng 17 ngày đường, mỗi tiểu đội cách nhau 1 ngày đường. Hôm ấy, tiểu đội của tôi chỉ có 3 người ở lại trực chiến, số còn lại đi giúp các tiểu đội khác san lấp hố bom. Một đại đội pháo của địch bất ngờ đổ bộ xuống, chỉ có 3 anh em chúng tôi cầm cự với địch, khoảng nửa giờ sau đó mới được một tiểu đội khác sang hỗ trợ. Giữa lúc đó, một mảnh pháo 223 rơi xuống chém đứt một thân cây to cách vị trí tôi đứng chưa đầy 2m, mảnh pháo bắn ra, phang trúng vào chân tôi. Toàn bộ phần xương chân trái bị gãy dập vụn, chân mềm nhũn chỉ còn lại phần thịt, không thể băng bó được. Nhìn xung quanh không thấy ai, tôi gắng gượng hết sức, lôi toàn bộ số thuốc dự trữ có trong người ra uống mà không cần biết đó là thuốc gì, tiếp đó lê người, kê chân lên một thân cây, dùng dao găm tự tay cắt đứt phần chân bị gãy, sau đó garô, băng bó và nằm chờ đồng đội đến đưa đi…”.
Cũng từ lần đó, dòng máu chảy trong người thương binh Hà Quý Phiến có một phần máu mà đồng đội của ông đã sẻ chia. Cũng bởi thế mà sau này, khi sống sót trở lại quê hương với cơ thể không còn lành lặn nhưng người thương binh ấy vẫn nguyện “sống hết mình”, “cháy hết mình” dù trong bất cứ hoàn cảnh nào với mong muốn cố gắng sống xứng đáng, sống thêm cả phần cho những đồng đội đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi đất mẹ chiến trường. Ông cũng hiểu mình đã may mắn hơn họ rất nhiều vì được sống, tận mắt chứng kiến ngày độc lập, tự do, thống nhất đất nước…
Sức khoẻ dần hồi phục, ông Phiến được đưa ra Bắc an dưỡng. Cuối năm 1972, ông trở về quê hương và gặp lại cô bạn cùng lớp phổ thông, lúc ấy đã trở thành một cô giáo. Với vết thương trên cơ thể nhưng chàng thương binh Hà Quý Phiến không mặc cảm, tự ti giống như nhiều người khác, ngược lại, ông khảng khái, chân thành ngỏ lời cầu hôn với người con gái đẹp người đẹp nết ấy. Và rồi, bằng một tình yêu trong suốt, không thể diễn tả, cô gái Trần Thị Đông đã từ chối những chàng trai khác để nguyện gắn bó cuộc đời cùng anh lính thương binh với lời hứa “Em sẽ bù đắp cho anh những gì đã mất trong chiến tranh…”.
Cùng chiếc nạng “chung sống hoà bình”
Trong 2 năm (1972-1974), xương chân trái cứ mọc chồi ra, ông Phiến phải làm phẫu thuật, cưa đi cưa lại đến lần thứ 5 mới chấm dứt hoàn toàn. Những năm tháng tiếp theo, bố mẹ ngày một già yếu, đàn con thơ lần lượt chào đời, cái đói cái nghèo quẩn quanh, bủa vây căn nhà tranh vách đất. Trách nhiệm trụ cột gia đình đè nặng lên đôi vai người thương binh ấy. Không cam chịu số phận, ông Phiến thầm nghĩ: “Chiến tranh ác liệt như thế, cướp đi một phần cơ thể mà mình vẫn sống thì không có lý do gì lại chịu đầu hàng, để cái đói, cái nghèo đánh gục giữa hoà bình…”. Cứ thế, ông cùng chiếc nạng đi muôn nẻo, làm đủ nghề, xốc vác, xoay vần với cuộc mưu sinh, nếm trải đủ nỗi vất vả, trầy trật.
Đó là những năm tháng người dân trong vùng thường thấy một thương binh chống nạng, ngày ngày mang theo búa, cuốc, xẻng, xà beng đi hết làng này sang làng khác, đánh gốc cây lấy gỗ để đem đổi lấy gạch, ngói về xây cất lại căn nhà tranh dột nát. Hết đánh gốc cây lại đánh dậm, bắt tép, bao nhiêu công việc đồng áng, ruộng vườn nặng nhọc đều một tay ông Phiến chăm lo, gánh vác. Lại nghe thiên hạ người ta buôn khoai có lãi, ông cũng đi.
Bến phà Hồ ngày ấy, cứ mỗi buổi sáng chiều có hàng trăm chiếc xe thồ lên xuống, chở theo hàng tạ ngô, khoai, sắn. Dù chỉ còn một chân với chiếc nạng nhưng ông Phiến chẳng chịu thua kém ai, tháng 30 ngày đi đủ 30 chuyến hàng. Chiếc xe đạp thồ của ông vẫn chất chở cả tạ khoai sắn, bon bon từ tỉnh này qua tỉnh khác. Thậm chí có những lần được giá, ông còn cố đèo thêm, khiến các buôn lái khác nhìn thấy phải trầm trồ thán phục… Chẳng thiếu gì những lần trái gió trở trời, vết thương ở mỏm chân cụt co rút, khắp cơ thể bỏng buốt, có lúc đang ngồi mà nhảy dựng lên vì không chịu nổi cơn đau. Nhưng, hễ dứt cơn là ông lại cuốn vào công việc chỉ đơn giản bởi một nỗi: “Không làm thì đói, chết đói” – ông láy đi láy lại như thế với vẻ thầm mãn nguyện của một người sau khi đã nỗ lực vượt qua cả quãng đời gian khó. Cho đến bây giờ, khi đã cập cái tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng mỗi lần ngồi nghĩ lại những năm tháng gian truân, khốn khó ấy, bản thân ông cũng không tin rằng mình đã miệt mài lao động quên hết mệt mỏi như thế…
Khát vọng của lão VĐV ParaGame Bóng bàn
Gần 40 năm cuộc đời, chiếc “chân tròn” đã cùng người lính thương binh ấy song hành in dấu trên mọi nẻo đường mưu sinh, kiếm sống, chiến thắng nỗi đau và nếm trải đủ gian khó, vất vả. Nhưng nghị lực phi thường của người thương binh có tinh thần thép ấy vẫn chưa dừng lại ở đó. Khi cuộc sống dần tạm ổn, con cái trưởng thành, có thời gian nghỉ ngơi, ông Phiến lại cùng chiếc nạng ngày ngày xoay tròn cùng trái bóng bàn với mong muốn thể thao sẽ giúp ông giành lại phần sức khoẻ đã mất trong chiến tranh. Cứ thế, mỗi ngày, ông dành thời gian cho thể thao, hết đạp xe đi hàng chục cây số lại quay về luyện tập bên bàn bóng. Niềm đam mê Bóng bàn của ông cũng bắt đầu được nhen nhóm, phát triển từ đó.
Để thoả niềm say mê, yêu thích ông tự mua sắm bàn bóng, vợt để tập luyện. Ông cũng là người có công gây dựng phong trào, thu hút, cổ vũ, động viên không chỉ những người khuyết tật mà cả những người lành lặn và thanh thiếu niên trong thôn, xóm đến với Bóng bàn. Vậy là, từ một hoạt động tự phát nhằm rèn luyện sức khoẻ cho bản thân mình, căn nhà nhỏ của ông Phiến đã trở thành cái nôi của CLB Bóng bàn xã Song Hồ.
Sau 13 năm tập luyện (từ 1990 đến 2003), lần đầu tiên ông Phiến được tham gia thi đấu là dịp Para Games 2 do Việt Nam đăng cai tổ chức tại Hà Nội (sau SeaGames 22). Lần đó, hoạ sỹ Phan Cẩm Thượng - một đồng đội cũ đã trực tiếp về đón ông Phiến ra Hà Nội và chăm lo từng bữa ăn, chỗ ngủ cho ông trong những ngày thi đấu. Những năm tiếp theo, khi thì bạn bè nhận đưa đi, còn phần lớn là bà Đông - Người vợ hết mực tảo tần đã bao lần cùng chồng khăn gói lên đường tham dự các giải thi đấu Bóng bàn dành cho người khuyết tật. Và lần nào ông Phiến cũng đoạt giải mang về.
Đến nay ông đang sở hữu một bộ sưu tập huy chương với vài chục chiếc, gồm đủ loại Vàng, Bạc, Đồng. Thành công đó không chỉ ghi nhận sức mạnh, nghị lực của người lính thương binh mà còn là kết quả của một niềm đam mê say cháy với thể thao. Bởi, nếu không có tình yêu bóng bàn thực sự, hỏi ông Phiến có hết lần này đến lần khác tự bỏ tiền túi với chiếc nạng gỗ vào Nam, ra Bắc, tham dự không sót một giải thể thao toàn quốc dành cho người khuyết tật hàng năm? Phần đời còn lại, ông Phiến chỉ có một ước nguyện duy nhất, là được các cấp quan tâm, tổ chức các giải thể thao dành cho người khuyết tật, thành lập các CLB để tạo sân chơi cũng như giúp người khuyết tật trong tỉnh có điều kiện hoà nhập cùng những người lành lặn bình thường khác. Đó là khát vọng cháy lòng của một lão VĐV ParaGame Bóng bàn đã nhiều lần bỏ tiền túi đi thi đấu với tư cách VĐV tự do nhưng vẫn cầm biển đại diện cho tỉnh Bắc Ninh…
Bây giờ, mỗi khi ở đâu đó có giải thể thao dành cho người khuyết tật, người ta lại nhớ về mảnh đất bên bờ Nam sông Đuống, nơi lão VĐV ParaGame môn Bóng bàn – Hà Quý Phiến đã sống một cuộc đời như thế, cùng dấu chân tròn chiến thắng nỗi đau, sống ý nghĩa và sống thêm cả phần cho bao anh em đồng đội đã mãi mãi nằm lại chiến trường…
Phóng sự dự thi của Thuận Cẩm
Ý kiến ()