Sau Hiệp định Giơ ne vơ (1954) cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương chấm dứt. Ngày 16-5-1955, Pháp rời Hải Phòng, Miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng. Với cương vị là người đứng đầu Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, chuẩn bị các điều kiện cần thiết tiến hành cách mạng XHCN ở Miền Bắc, đủ sức làm hậu thuẫn vững chắc cho chiến trường Miền Nam là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, Người đã đến nhiều địa phương thăm hỏi, động viên cán bộ, nhân dân, tạo nên những phong trào thi đua lao động, sản xuất sôi nổi, thực chất và hiệu quả.
Với Bắc Ninh, Người đặc biệt quan tâm dành 18 lần về thăm (từ 1945-1967). Trong những lần đó Bác luôn căn dặn đồng bào phải hăng hái thi đua lao động sản xuất, đoàn kết, cán bộ lãnh đạo phải có quyết tâm khắc phục khó khăn làm tròn nhiệm vụ... Đặc biệt, ngày 11-7-1958, Bác về dự hội nghị sản xuất của tỉnh Bắc Ninh, Bác thân mật nói chuyện với hơn 200 cán bộ từ cấp tỉnh đến xã, chiến sỹ thi đua, tổ trưởng tổ đổi công, đại biểu HTX nông nghiệp, bộ đội... Sau khi đề ra mười việc phải làm cho cán bộ, nhân dân Bắc Ninh về cải tiến kỹ thuật, về giống lúa, về phân bón, về đoàn kết, thi đua, lãnh đạo để đạt thắng lợi trong vụ mùa, Bác đã kể lại câu chuyện của huyện Lai Pin (Trung Quốc) biến đổi từ một vùng thiếu nước và nghèo đói thành một vùng no ấm, giàu có do quyết tâm thi đua của cán bộ, nhân dân trong huyện. Người hỏi: “Tỉnh ta không có nhiều khó khăn bằng huyện Lai Pin. Cán bộ và nhân dân Bắc Ninh có quyết tâm làm được như Lai Pin không?” thì cùng lúc tiếng “Làm được ạ” vang dậy cả hội trường.
Câu chuyện về đổi mới huyện Lai Pin chính là lời căn dặn của Hồ Chủ tịch với cán bộ, nhân dân Bắc Ninh về Tư tưởng, tinh thần, hành động vượt khó; ý chí phấn đấu vươn lên trong khó khăn để xây dựng tỉnh Bắc Ninh ấm no, giàu có.
Tư tưởng, tinh thần và hành động vượt khó của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giá trị to lớn được đúc kết từ chính cuộc đời của Người. Từ nỗi đau mất mát lớn nhất đầu tiên tác động đến tình cảm, ý chí và nghị lực trong cuộc đời Bác, đó là vào năm 1900. Cha đi coi thi ở Thanh Hoá, cậu bé Nguyễn Sinh Cung (tên của Bác lúc nhỏ) về ở với mẹ trong nội thành Huế, mẹ sinh bé Xin trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thiếu thốn, nên lâm bệnh và qua đời, không bao lâu sau bé Xin quá yếu cũng theo mẹ. 11 tuổi, Người đã phải chịu nỗi đau mất mát quá lớn, mất mẹ và em. Vượt lên hoàn cảnh khó khăn cùng với nỗi đau, sự mất mát đó là ý chí và nghị lực của một cậu bé mới 11 tuổi. Chính từ đây đã rèn đúc ý chí vượt khó, qua những thử thách, gian khổ trong hành trình tìm đường cứu nước sau này của Bác.
Cuộc hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách. Làm phụ bếp trên tàu Latuso Torevin, phải lao động từ lúc bốn giờ sáng quét dọn, đốt lò, lấy than, xuống hầm khiêng thực phẩm vào bếp, lại thêm lênh đênh trên biển. Nhưng ý chí và nghị lực kiên cường, càng gian khổ, khó khăn thì sức chịu đựng của Bác càng được hun đúc sau mỗi hải lý con tàu vượt sóng.
Những năm tháng đặt chân đến Anh, Pháp, Mỹ... Bác Hồ đã phải trải qua những tháng ngày lao động gian khổ với nhiều nghề vất vả để kiếm sống và nuôi chí lớn tìm đường cứu nước. Nhà thơ Chế Lan Viên sau này đã viết trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước”: Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê/Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá/Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ/Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?
Cùng với những khó khăn gian khổ trong hoạt động, Nguyễn Ái Quốc luôn bị kẻ thù rình rập, theo dõi, giám sát, hăm dọa và tìm mọi thủ đoạn hãm hại. Bản án tử hình vắng mặt (1929), và những ngày bị thực dân Anh bắt giam tại Hồng Kông (Trung Quốc) (1931), hay khi trong lao tù của Tưởng Giới Thạch (tháng 8-1942-tháng 9/1943)... tất cả những khó khăn gian khổ đó không làm Nguyễn Ái Quốc chùn bước. Từ thực tiễn cuộc sống vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ đã đúc kết thành tư tưởng vượt khó của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chúng ta đều biết, ý chí và nghị lực là tố chất hết sức quan trọng đối với mỗi con người, giúp con người xác định mục tiêu, đưa ra những quyết định cho hướng đi của mình, từ đó vượt qua những khó khăn, thử thách nhằm đạt được mục đích đề ra. Ở Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh ý chí và nghị lực vượt khó mang tính nhân văn sâu sắc và được thể hiện ở một tầm cao, định hướng cho một mục đích cao cả là: Tìm đường cứu dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tinh thần, ý chí và hành động vượt khó vì Dân, vì Nước của Bác đã, đang lan tỏa, truyền lại cho mọi thế hệ mai sau.
Sau chiến thắng Điện Biện Phủ 1954, thiếu lương thực là một vấn đề khẩn cấp cần được giải quyết. Chính phủ thực thi nhiều biện pháp khuyến khích dân chúng tích cực nâng cao năng suất cây trồng, hiệu suất sử dụng đất canh tác, đất bỏ hoang và tạo nhiều điều kiện khuyến khích nông dân khai thác đất nông nghiệp mới... nhằm chống “giặc đói”. Đời sống nhân dân Miền Bắc hết sức khó khăn, các công trình thủy lợi hư hại, đồng ruộng chưa được khai thác, phương thức sản xuất lạc hậu, trì trệ... vì vậy, trong năm 1958, Bác dành 3 lần về thăm công trường Bắc-Hưng-Hải. Những lần về thăm Bắc Ninh, Bác luôn căn dặn cán bộ phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng và lề lối làm việc, phải gương mẫu, mạnh dạn cải tiến kỹ thuật; cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh phải đoàn kết thi đua xây dựng Bắc Ninh trở thành tỉnh giàu có... như lời Người căn dặn trước khi ra về tại hội nghị sản xuất tỉnh Bắc Ninh ngày 11-7-1958: “Một lần nữa Bác hỏi các cô các chú: Bác về có thể báo cáo Trung ương Đảng và Chính phủ rằng cán bộ và nhân dân Bắc Ninh đã có quyết tâm làm vụ mùa thắng lợi chưa? Bắc Ninh có quyết tâm noi gương Lai Pin, biến tỉnh Bắc Ninh thành một tỉnh giàu có, tiến lên xã hội chủ nghĩa”. Tất cả mọi người hôm ấy đều vỗ tay, reo cười và phấn khởi đáp “Quyết tâm”.
Thực hiện lời căn dặn cách đây 60 năm của Bác, kế tiếp những thế hệ lãnh đạo, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tỉnh Bắc Ninh luôn phát huy, kế thừa trí tuệ tập thể, đồng thuận tìm cơ hội ngay trong gian khó, coi đó là “lửa thử vàng” rèn luyện, tôi luyện mình. Bởi vậy, từ một địa phương thuần nông, còn nhiều khó khăn, có diện tích tự nhiên nhỏ nhất cả nước, sau hơn 20 năm tái lập tỉnh, hiện nay Bắc Ninh đã trở thành một tỉnh đứng trong tốp đầu cả nước về phát triển kinh tế-xã hội; về thu nhập bình quân đầu người; đi trước, đi đầu trong các chính sách an sinh xã hội. Đặc biệt trên lĩnh vực nông nghiệp-nông dân-nông thôn, Bắc Ninh đã và đang phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao với các trang trại sản xuất mang lại giá trị kinh tế cao như: Trồng tía tô xanh xuất khẩu (Lương Tài); nuôi vịt trời, chế biến xuất khẩu (Thuận Thành); các mô hình nuôi cá, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rau sạch, trồng hoa trong nhà lưới đạt hiệu quả; những cánh đồng mẫu lớn với hệ thống kênh mương kiên cố “dẫn thủy nhập điền” đưa các loại giống lúa mới được sử dụng cho năng suất, chất lượng cao... Đời sống nông dân và diện mạo nông thôn Bắc Ninh từng ngày đổi mới. Các thiết chế văn hóa mới, các di tích đình, chùa-linh hồn của làng quê Việt Nam được trùng tu, góp phần bồi đắp thêm truyền thống và cốt cách của vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc.
Bài học vượt khó nhắc nhở mỗi chúng ta: Để xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, còn phải vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đòi hỏi mỗi người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên phải phát huy tốt vai trò tiền phong gương mẫu, nói đi đôi với làm, ra sức học tập, rèn luyện ý chí và nghị lực, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, tinh thần yêu nước, để vượt qua những thách thức, khó khăn, biến những thách thức thành cơ hội phát triển đất nước, quê hương. Nhằm đóng góp sức lực và trí tuệ của mình đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều đó chính là thể hiện trách nhiệm của đảng viên đối với vận mệnh đất nước.
Nhớ lời Bác dạy, Bắc Ninh hôm nay tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến để thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Thực hiện tốt điều đó sẽ tạo động lực thúc đẩy các cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền địa phương, cán bộ, đảng viên, quần chúng thi đua rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trên mọi lĩnh vực; Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền từ tỉnh đến cơ sở; Tập trung xây dựng, hoàn thiện các tiêu chí điển hình tiên tiến, làm cơ sở để các tập thể, cá nhân phấn đấu, bình xét, khen thưởng; Tạo môi trường thuận lợi để các điển hình tiên tiến phấn đấu, rèn luyện và nâng cao vai trò trong thực tiễn; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nhân rộng điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” để mọi tập thể, cá nhân học tập, phấn đấu và noi theo.
Bài học về ý chí, nghị lực kiên cường vượt qua khó khăn, thử thách của Hồ Chủ tịch trước vận mệnh của đất nước vẫn còn nguyên giá trị đối với mọi thế hệ người Việt Nam.
Bác Hồ kính yêu đã đi xa nhưng để lại cho chúng ta những bài học hết sức quý giá về ý chí và nghị lực để vượt qua những khó khăn thách thức, những mất mát, hy sinh và vượt qua những đau thương, bất hạnh của số phận để không ngừng vươn lên trong cuộc sống.
Mỗi lần Bác về thăm là một vinh dự lớn đối với đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bắc Ninh; mỗi nơi Bác đến thăm đều thấm đẫm tình cảm của Người; mỗi lời căn dặn của Bác là một bài học mà mỗi người, mỗi đơn vị, địa phương ghi nhớ và thực hiện tốt hơn trong cuộc sống hôm nay. Mỗi người dân Bắc Ninh vẫn luôn thấy Bác Hồ kính yêu mỉm cười khi vượt qua khó khăn thách thức để đạt được mục tiêu đề ra.
Tiến sĩ Nguyễn Bá Sinh
Tỉnh ủy viên, Tổng Biên tập Báo Bắc Ninh, Chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh
Ý kiến ()