Thôn Đào Viên (xã Nguyệt Đức, Thuận Thành) xưa vốn nổi tiếng với bí quyết đúc đồng liền khối, gắn với tên tuổi ông tổ nghề Nguyễn Minh Không. Tiếng thơm xa gần, nhiều nghệ nhân của Đào Viên được triều Lê (1428- 1527) triệu ra cùng các làng nghề khác thành lập làng Ngũ Xá, chuyên đúc đồng (tiền, đồ thờ) phục vụ việc triều chính. Thời gian trôi đi, làng nghề nức tiếng chỉ còn lưu trong sử sách. Ngày nay, lớp cháu con cùng các bậc cao niên của thôn đang thầm lặng tìm cách duy trì, khôi phục lửa nghề xưa, nhưng giữa thời cơ chế thị trường, hướng đi nào cho sự hồi sinh của làng nghề vẫn là câu hỏi lớn với người dân và chính quyền nơi đây.
Nghề cha ông, không làm thì mất
Trong căn nhà mái bằng khá khang trang, anh Dương Văn Thành tất tả bê một lô sản phẩm đúc đồng giới thiệu với khách. Hàng còn lại cũng chỉ vài ba chiếc đỉnh, lư hương. Anh cho biết, toàn bộ hàng làm ra đều là thô, để xuất sang Đại Bái (Gia Bình), Hà Nội, Hưng Yên, sau đó được gia công lại (chạm, khắc, đánh bóng..) rồi mới tung ra thị trường. Thông thường một sản phẩm có giá trên dưới 1 triệu đồng, qua nhiều công đoạn gia công tinh xảo chúng có giá trị lớn gấp 2- 3 lần giá ban đầu và khi ấy hàng cũng mang một tên gọi của vùng miền khác...
Học được nghề đúc từ thuở thiếu niên, trải qua quá trình tích cóp đến ngoài tứ tuần, vợ chồng anh mới xây được cái lò con con, mỗi năm chỉ nổi lửa 4-5 lần. Hỏi vì sao số lượng hàng tồn không nhiều mà một năm chỉ đúc ít vậy, anh Thành trầm ngâm: “Phải có vốn mới sản xuất được. Để đốt một lò, ít cũng phải có 40-50 triệu, nhiều đến cả trăm triệu đồng. Không chỉ nguyên liệu mà tiền làm khuôn, chất đốt cũng khá tốn kém. Trung bình một lần “nổi lửa”, những thứ “phụ gia” ấy tốn không dưới 7 triệu đồng. Nếu đủ vốn sẽ có nhiều lợi thế hơn, chúng tôi có thể chủ động mua nguyên liệu khi giá rẻ hoặc “gom” hàng thành phẩm chờ giá lên. “Cái khó bó cái khôn”, chính vì thiếu vốn nên phần lớn những hộ còn giữ ấm được lò đúc nhà mình đều do làm thuê. Có nghĩa là người ta đưa nguyên liệu đến thuê dân Đào Viên đúc theo số lượng sản phẩm đã định trước và họ trả công cùng những sản phẩm nếu khéo tay làm dôi ra.
Không riêng gì nhà anh Thành, vợ chồng trẻ Đỗ Văn Cường - Trịnh Thị Huế cũng phải “túc tắc” sống cùng nghề cha ông. Sau 4 năm xây dựng gia đình, năm 2008 hai vợ chồng được cả bên nội, ngoại dốc sức đầu tư chiếc lò nung trị giá 20 triệu đồng. Vậy mà đến thời điểm giữa năm 2009, chiếc lò ấy cũng chỉ “nóng” lên duy nhất một lần. Lô sản phẩm đầu tiên là 20 đôi hạc và 20 chân nến với vốn đầu tư hơn 40 triệu đồng mang theo mong ước của đôi bạn trẻ về một tương lai tươi sáng... Chẳng ngờ, giá mua nguyên liệu cao đến khi ra lò thì giá các sản phẩm lại thấp, xô đi bù lại lờ lãi chẳng được là bao. Còn vài chân nến và đôi hạc do giá rẻ tiếc của chưa bán, họ để đấy coi như bài học mới vào nghề... Chẳng nề hà trước khó khăn, hai vợ chồng lại tiếp tục chuẩn bị cho mẻ hàng thứ 2. Lần này, họ tập trung vào mặt hàng chân nến, vừa thông dụng mà giá cả phải chăng, ít dao động và như vậy rủi ro cũng ít hơn. Chị Huế tâm sự: “Hàng chủ yếu bán xuống Nam Định, đợt đầu phải mang sản phẩm đi thuê tinh chế nên hiệu quả không cao. Nhưng để tự gia công ở nhà, mình phải đầu tư máy, thiết bị, thuê lao động. Nếu được Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ nguồn vốn để sản xuất phát triển thì tốt quá. Nghề truyền thống, không làm thì mất, nhưng nếu cứ tự người dân xoay xở thì chẳng biết khi nào làng nghề mới hồi sinh?”.
Trăn trở, day dứt với câu hỏi này không ai hơn trưởng thôn Đỗ Văn Đốc- người đã gắn bó với cả quá trình khôi phục của làng nghề trong vài chục năm gần đây. Trong nhiệm kỳ trước và cả bây giờ không biết bao nhiêu lần ông tiếp đón, cung cấp tài liệu làng nghề cho các đoàn khách tham quan. Vậy mà cũng ngần ấy lần, sự chờ đợi những tín hiệu vui cho làng nghề rơi vào hụt hẫng. Không day dứt sao được khi cả thôn có hơn 20 hộ làm lò đúc và gia công, lúc cao điểm giải quyết việc làm cho cả trăm lao động. Sản phẩm làm ra đến tay người tiêu dùng Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hưng Yên... vậy mà hoạt động của làng nghề vẫn nhỏ lẻ, rời rạc, người dân không sống được với nghề truyền thống. Đáng buồn hơn khi sản phẩm xuất đi từ chính làng nghề đều mang những cái tên khác, không phải Đào Viên như đã từng một thời rực rỡ...
Vang bóng một thời
Làng nghề đúc đồng Đào Viên xưa có câu: “Nồi nát thì về cầu Nôm. Con gái nỏ mồm về ở với cha”. Cầu Nôm xưa thuộc huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành (nay là huyện Thuận Thành) chuyên thu mua phế liệu đồng nát về bán lại cho Đào Viên làm nguồn nguyên liệu đúc ra sản phẩm đồng: tượng, chuông, khánh, đỉnh, chân nến, hạc...Theo lịch sử, khoảng năm 1428-1527 (triều Lê) Đào Viên đã cùng 4 làng Đông Mai, Điện Tiền, Châu Mỹ, Long Thượng (Hưng Yên) vốn có nghề đúc đồng được triều đình gọi về Thăng Long lập trường đúc tiền và đồ thờ. Tại đây, họ đã sinh cơ lập nghiệp, tạo dựng làng mới trên đất Thăng Long và lấy tên là Ngũ Xã, có nghĩa là 5 làng để ghi nhớ quê gốc của mình. Về sau làng được tổ chức thành phường nghề riêng, gọi là phường đúc đồng Ngũ Xã (nay là phố Ngũ Xã, thuộc quận Ba Đình-Hà Nội). Đến nay, cả Đào Viên và Ngũ Xã đều thờ chung ông tổ nghề là Nguyễn Minh Không, tên tự là Lý Triều Quốc Sư... Qua các văn bia và niên hiệu năm tháng được khắc trên những quả chuông cổ, khoảng năm 1915, Đào Viên còn có nghệ nhân đúc đồng giỏi được nhà vua triệu vào Huế đúc các đồ thờ và cánh cửa triều đình. Hay cụ Đỗ Văn Tài, đúc đồng rất giỏi được triều đình ban tặng danh hiệu Hàn lâm, ngày sau con cháu thường gọi cụ là Hàn Tài. Làng nghề Đào Viên trước năm 1954 là nơi kinh tế phồn thịnh, giao lưu buôn bán với các khu vực: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định... Các nghệ nhân quê Đào Viên như Đỗ Văn Hiếu, Đỗ Văn Tuỳ, Ngô Thị Đam đã đúc tượng Đại Di Đà chùa Ngũ Xã cao 10m, nặng 17 tấn. Cụ Cửu Chính đúc 3 pho tượng lớn ở chùa Hàm Long ngày nay vẫn còn lưu giữ. Tại làng quê, hiện còn thờ 2 pho tượng Thành hoàng làng, 2 quả chuông to khoảng 200 kg và các đồ thờ khác tại đình, chùa đều do chính tay các nghệ nhân của thôn sáng tác... Đây chính là giai đoạn cực thịnh của làng nghề đúc đồng Đào Viên với những thế hệ nghệ nhân nức tiếng về tài đúc đồng liền khối. Chứng tích rõ nét về một thời hoàng kim của làng nghề đúc đồng Đào Viên là việc năm 2006, người dân đã khai phá được bãi thải quặng với quy mô hàng nghìn tấn dọc theo sông Lang Tài trước cửa thôn. Người trong Đại Bái đổ xô ra mua hàng trăm tấn quặng về tinh chế gây xáo trộn buộc chính quyền địa phương phải khoanh vùng cấm khai thác mới yên... Trải qua 2 cuộc kháng chiến, làng nghề đình đốn cho đến đầu năm 2000 mới khôi phục.Với sự tác động của các cụ cao niên, nhiều nghệ nhân đi xa quê đã về góp sức, truyền nghề cho lớp trẻ mở lại lò đúc truyền thống khi xưa. Nhưng lửa nhiệt huyết khó thắng được cơ chế thị trường, Đào Viên sau bao năm quên lãng vẫn chưa có sự đầu tư nào đủ sức khơi dậy sức sống, tiềm năng cho làng nghề. Sự hồi sinh chỉ mang tính rời rạc, lác đác và gắng gượng trên quy mô nhỏ bé...Ông Vũ Văn Hào, Phó Chủ tịch UBND xã Nguyệt Đức cho rằng: “Muốn khôi phục làng nghề Đào Viên cần có sự giúp đỡ của các cấp, ngành. Nhân dân mong muốn được sự hỗ trợ về vốn, công nghệ sản xuất. Nhiều nghệ nhân xa quê cũng bày tỏ tâm nguyện được đóng góp tài năng, trí tuệ thậm chí cả vật chất để khôi phục làng nghề cho quê hương. Sở Công thương đã về khảo sát vài lần nhưng định hướng phát triển cụ thể vẫn chưa đâu vào đâu”...
Hướng đi cho làng nghề hồi sinh?
Trao đổi vấn đề này, ông Đặng Gia Trọng, Chủ tịch UBND huyện Thuận Thành khẳng định: “Trong chiến lược đầu tư phát triển lĩnh vực CN-TTCN của huyện Thuận Thành, nghề đúc đồng Đào Viên cũng là một trong những nhân tố quan trọng cần được khôi phục để phát huy tiềm năng của làng nghề có bề dày truyền thống. Nhưng bối cảnh kinh tế hiện nay cho thấy muốn hồi sinh được thì làng nghề phải tìm được thị trường. Các làng nghề tồn tại được là do có thị trường tiêu thụ nhưng không phải ai cũng biết chỗ nào cần mua cần bán”. Theo ông Trọng, người sản xuất ở làng nghề không thể bỏ tiền đi tìm kiếm thị trường mà Nhà nước phải có định hướng, tìm kiếm thị trường cho người dân. Khi có thị trường, trong quá trình sản xuất người dân mới bộc lộ những khó khăn (vốn, công nghệ) để các ngành chức năng căn cứ vào đó mà hỗ trợ... Cũng vấn đề này, ông Tạ Đăng Đoan, Giám đốc Trung tâm Khuyến công và tư vấn phát triển công nghiệp Bắc Ninh (Sở Công thương) cho biết: “Qua khảo sát, chúng tôi thấy nếu khôi phục được làng nghề sẽ có ý nghĩa lớn về lịch sử, bản sắc làng nghề và quan trọng hơn cả là việc tạo công việc ổn định cho người dân. Tuy nhiên để phát triển làng nghề Đào Viên, chúng ta cũng gặp không ít khó khăn về vốn, nguồn lao động (thợ có tay nghề), nghệ nhân giỏi...”. Để khắc phục những khó khăn, mở hướng cho làng nghề, ông Đoan cho rằng, chính quyền phải vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa. Địa phương cần phải có đề án cụ thể, chi tiết để làm căn cứ mời gọi đầu tư. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, quảng bá, vận động, tạo điều kiện xây dựng, thành lập các đơn vị (doanh nghiệp, HTX) tiên phong trong sản xuất làng nghề. Kết hợp với sự đầu tư của địa phương, các cấp, ngành phải tăng cường hỗ trợ nguồn vốn đào tạo, ứng dụng công nghệ vào sản xuất. Tạo điều kiện để các hộ dân có thể vay vốn mở rộng sản xuất. “Nét đặc sắc của đúc đồng Đào Viên là việc tạo ra những sản phẩm liền khối. Để giữ được truyền thống, yếu tố địa phương rất quan trọng, tiếp đó mới đến yếu tố cộng đồng, liên kết, tham gia. Trước mắt, Đào Viên có thể làm gia công, phụ trợ cho một số địa phương khác, khi hạ tầng phát triển sẽ xây dựng thương hiệu cho mình. Khôi phục làng nghề là cả một quá trình dài, phải làm tuần tự không thể tự nhiên áp cả một hệ thống sản xuất vào để nhanh chóng thành công được”- ông Đoan kết luận.
Phóng sự dự thi của Đức Anh
Ý kiến ()