Ngày ấy
Làng Ném Sơn nằm ôm thế đồi chạy dài từ tây sang đông, mang dáng hình con cá sộp. Đầu sộp đớp mặt trời hoàng hôn, đuôi vẫy gọi bình minh đón chào một ngày mới. Cái làng mà bọn trẻ chúng tôi được sinh ra, lớn lên ở đây.
Làng nhỏ. Người còn ít. Cây cối mọc tràn lan. Nhiều cây cổ thụ cao chót vót, cành lá xum xuê. Nhiều loài chim đã tụ về làm tổ sinh sôi. Chỉ riêng đa, khách có dịp lui tới đều thốt lên, chưa thấy ở đâu nhiều đa như ở đây. Những vòm đa cổ thụ, tuổi đa chẳng ai biết. Các cụ cao niên của làng bảo vậy. Làng còn có những cặp song đa, được trồng thẳng hàng từ trái sang phải đa ông, đa bà thân đều to. Nhưng đa ông thân cao hơn, quả dài chứ không tròn như đa bà. Chim gọi bầy ăn trái cây xập xoè, ríu ran suốt ngày.
Thu vàng lá rụng. Đông hanh khô mà tiếng chim vẫn ngập tràn làng, vui bốn mùa vui.
Cảnh vật, chim muông, cùng bàn tay con người đã thêu dệt nên bức tranh sắc màu làng tôi.
Mỗi khi bình minh thức dậy mở ra một ngày mới, bọn trẻ chúng tôi cắp sách đến trường là một ngôi chùa làng. Chiều từ các thế ngõ răng bừa của làng, dắt trâu bò ra chăn thả sườn đồi. Trâu bò lẫn trong cỏ cây, cỏ cây hoa lá hòa trong tiếng chim, tiếng cười đùa của trẻ trâu. Đàn trâu bò hiền lành, mải miết gặm thảm cỏ non no tròn. Bọn tôi thả sức chơi “ô ăn quan” trên phiến đá có sẵn những ô, chẳng biết do bàn tay người hay Tiên? Tiếp đến là chơi trò tập trận giả “quân đỏ, quân xanh”, lăn lê bò tiến súng gỗ lăm lăm trong tay, bắt bằng được “quân xanh” đầu hàng. Rồi ôm đầu đua nhau lăn dốc, hoa lá sim mua kịp dàn hàng ngang ngăn lại. Nếu không, bọn tôi đã ngập chìm xuống “biển lúa” đang ơ vàng sắp vào mùa gặt.
Khi hoàng hôn đỏ rực phía tây, sực nhớ, môi tím sậm màu tím sim mua, chễm chệ lưng trâu đủng đỉnh về chuồng, miệng cùng cất lên những câu đồng dao.
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là…
Săn bắn chim, chuyện ấy đã cuốn hút quên cả ngủ trưa. Bọn tôi lại từ các thế ngõ răng bừa, cát sỏi lạo xạo bước chân, tập trung dưới râm mát tán đa Cổng Núi. Khi thì gốc đa Cửa Nghè rồng rắn theo, xem anh Lý bắn chim, nhặt chim giúp anh. Mỗi khi anh giương súng cao su lên tán đa, tầm tước, sấu, mít, bưởi… Rồi lũy tre bên cổng làng là quạ, giẻ cùi, cu gáy, vàng anh, vẹt, chích chòe… “rụng” xuống.
Với khẩu súng cao su trong tay, cùng những “viên đạn” sỏi căng đầy hai túi vạt áo nâu, mỗi lần anh Lý đi một vòng quanh làng, là đã có những chuỗi chim dài, ngắn. “Anh quả là một tay súng thiện xạ”. Bọn tôi khen vậy. Anh Lý cười hiền, bảo: “Mai này lớn lên, các em còn bắn giỏi hơn anh nhiều. Bắn giỏi để bảo vệ quê hương đất nước thân yêu của mình”. Rồi anh vỗ vai: “Chớ mà có bắn chim như anh”.
Hè về. Mùa duối vàng đây đó, quả mọng rực chín bờ rào, thiếu gì mồi cho chào mào. Ruộng bí, ruộng cà những con nhái béo vàng, châu chấu, cào cào, bắt về cho sáo đen, sáo sậu. Sống gần người có con đã dạn quen, mở lồng không bay đi cứ quanh quẩn xập xòa mái tranh, sân nhà líu lo ấm áp làm sao. Được dạy, có con biết nói khi người lạ đến nhà: “Có khách! Có khách…”. Gia đình như có thêm thành viên, cùng chung sống ấm cúng bên nhau.
Được cùng nhau lùng sục, ngó nghiêng tìm kiếm tổ chim, bắt chim non cũng là niềm say mê đầy hứng khởi của bọn trẻ chúng tôi, ở cái làng Ném Sơn cưỡi trên mình con cá sộp rậm ròa cây trái này.
Rồi một hôm. Như bao ngày, sau những giờ phút tìm bắt tổ chim, bọn tôi vòng về để rồi nhảy ùm xuống Ao Sen Làng tắm. Cái tên Ao Sen Làng ấy đã có từ đời nảo đời nào. Có lẽ ao được thả sen mà gọi vậy. Sen nhiều, nhưng nơi cầu ao vẫn còn một khoảng nước rộng. Tắm ao, một thú vui mà bọn tôi, chẳng thể quên mỗi khi hè về.
Chui rúc, len lỏi trong những khóm trúc, bụi dứa dại, móc thiều, găng gai… để có được những cái tổ chim xinh xinh, với những chú chim non hoặc trứng. Nhiều đứa bị gai cứa xước rớm máu ở mặt, cánh tay hoặc bắp chân mà nào có bỏ tắm. Người tắm, chim cũng tắm. Những chú chim sẻ, chích bông, chào mào, giẻ quạt non… từ những cái tổ đặt trên bờ, cũng vù vù theo người nhào xuống Ao Sen Làng. Khi mà ít phút trước, chúng chưa kịp chuyền cành chạy trốn. Cuộc vui đuổi bắt chim, rồi té nhau mặt nước sóng sánh ánh vàng.
Loài chim có bao giờ được dạy tập bơi, mà sao chúng cứ nổi như cái phao, trên mặt nước không chìm? Tranh cãi mãi, rồi câu hỏi ấy cũng theo năm tháng, cùng tuổi thơ trôi đi.
Vui đùa với nước, với chim đấy mà vẫn nhớ, mong ước mùa xuân tươi đẹp, lại nhanh chóng trở về đậu trên cành gạo. Hàng năm tháng giêng, hai mùa gạo nở. Bọn tôi lại rủ nhau tập trung bên gốc gạo già thân quen xù xì gai. Xô đẩy, tranh nhau đón những bông lửa mịn màng gió bứt tung xuống, rồi chia nhau cùng ăn những cái đài hoa xanh xanh nhớt. Vui cùng bầy chim líu lo, ríu rít trên cành cao cánh thấp.
Từ Ao Sen Làng bọn tôi ào lên, gốc đa Cửa Đình. Dưới tán râm mát lồng lộng gió đồng, chụm đầu ngồi lắng nghe ông chú tôi, kể chuyện quê hương kháng chiến. Ngôi chùa Phúc Sơn kia, ngôi chùa làng có từ thời Lý. Trong kháng chiến chống Pháp ta đã đặt Công binh xưởng chế tạo vũ khí tại đây. Ông là một trong những quân nhân của cơ sở bí mật này.
Những chiến sĩ du kích gan góc bám đất giữ làng, bảo vệ bằng được ngôi làng thân yêu của mình. Đã đào một đường hầm dài, từ tây sang đông dọc suốt làng. Được coi như địa đạo của cái làng chiến đấu Ném Sơn này. Họ chiến đấu rất mưu trí, ngoan cường. Lựu đạn quăng từ nhà nọ sang sân nhà kia. Bọn Tây mũi lõ, xanh mắt mèo hốt hoảng đã vứt bỏ lại gà mái ấp, chó con… ôm đầu vắt chân lên cổ chạy tháo thân. Nhưng nào có thoát, chúng đã vướng mìn du kích.
Dưới địa đạo làng còn có cả choé, lộc bình đựng nước uống, gạo rang của du kích ngày ấy. Chẳng biết những vật dụng đó, nay ở đoạn nào của địa đạo?
Chuyện đấy, làng đây nghe mà như trong thần thoại.
Và… hôm nay
Những trẻ chăn trâu hồn nhiên ngày ấy, thấm thoắt nay đã là những ông bà nội, ngoại của cháu, chắt bế bồng. Có những người đã ngã xuống mãi mãi ở tuổi đôi mươi, vì sự nghiệp vẻ vang bảo vệ Tổ quốc. Vô cùng biết ơn những anh hùng liệt sỹ, đã không tiếc máu xương mình vì nghĩa lớn.
Làng tôi, làng Ném Sơn (xã Khắc Niệm, thành phố Bắc Ninh) đã và đang từng giờ thay da đổi thịt đến chóng mặt. Nhà hai, ba tầng mọc lên như nấm mùa mưa. Còn đâu bờ rào duối chín vàng, hoa gạo đỏ. Đường ngõ cát sỏi lạo xạo bàn chân, nay đã bê tông hóa rộng, phẳng. Làng quê đang trên đường xây dựng nông thôn mới, văn minh giàu đẹp hơn.
Chim muông? Còn! Nhưng chỉ là những con chim lồng, của một số người chịu chơi “cây, con” thú vui cảnh nhà. Khi mà người ta đã có của ăn của để.
Làng nay vắng bóng dáng những con vàng anh, tu hú, giẻ cùi, bồ các, vẹt cùng một số loài chim khác nữa. Mà chỉ thi thoảng được nghe đây đó tiếng chim cu “Cục cù! Cục cù…”. Có con gáy “bổ hai, bổ ba”… Tiếng khiếu hót lanh lảnh. Tiếng chào mào láu táu ròn tan. Nhưng vẫn chỉ là âm điệu từ những chiếc lồng, lại càng gợi nhớ hoài niệm của một thời.
Chúng tôi ước mơ một ngày: Đàn chim nhiều loài của làng ngày xưa lại trở về làng. Lại được đậu trên những vòm đa xanh mát, vòm của những cây đa được trồng mới, thay những cây đã quá tay mình phá của mình.
Rồi… Chùa kháng chiến, làng kháng chiến mà nay chẳng thấy ai, khêu gợi ngọn lửa bài học lịch sử, của làng của quê hương cho thế hệ trẻ.
Chẳng lẽ mải mê làm giàu mà lãng quên tất cả?
Ý kiến ()