Tâm bị bắt quân dịch, bố buồn ít nhưng con dâu buồn nhiều. Ngoài sự trống vắng chồng con. Lan đang bụng mang, dạ chửa. Mọi việc giờ trút cả lên vai bố chồng. Từ bấy ông Đồng lầm lì như một bức tượng đồng hun. Có việc, ông chui ra-chui vào trong con đò nát, chỉ có hai khoang chật hẹp. Lúc rảnh, ông lại ngồi cuốn điếu thuốc lá rê, phả khói nồng nặc vừa ngai ngái, gây gây khiến người con dâu ngửi thấy lại trực nôn ọe.
Giờ thì quen rồi cái mùi thuốc rê nồng nặc, hợp với khứu giác của người thiếu phụ mới sinh đứa con đầu lòng vừa tròn 9 tháng. Hình như Lan đã mắc “Nghiện” khói thuốc của bố chồng. Ngay cả những con gián và mấy con chuột nhắt, cứ thấy ông hút thuốc là bò ra. Nên những lần có việc, ông phải đi đâu mấy ngày, khoang thuyền vắng lặng, người con dâu thoảng một nỗi nhớ. Lũ chuột và mấy con gián cũng uể oải vì không được ngửi mùi thuốc rê.
Cứ vậy, ông Đồng lặng lẽ suốt năm này sang tháng khác. Người con dâu cũng câm lặng như một đứa kiệm lời. Ngày hai bữa, Lan mời ba: “xơi cơm” rồi vụng về “à ơi” ru con ngủ. Xong việc giặt giũ, cô đẩy chiếc xuồng câu vào chỗ nước lặng. Ở đấy chỉ có mây trời lồng lộng. Sau lưng là con đập chắn. Trước mặt sóng nước chơi vơi. Đồ nghề của cô là chiếc cần câu nhỏ, một con dao cùn và một miếng gỗ, thay cho chiếc thớt. Sau khi băm nát đầu con cá ngạnh có bộ da trơn, Lan cầm nó “chỏa chỏa” xuống nước, cùng với hai bắp chân trần trắng nõn, đá lên-đạp xuống, làm cho mặt nước sóng sánh thành những vùng tròn, sủi bọt trắng tinh. Mùi tanh của cá mồi lan tỏa, khiến cho lũ cá mương ở đâu tranh nhau bu lại. Cùng lúc, tay phải Lan liên tiếp “phẩy-giật” chiếc cần chỉ nhỉnh hơn sải tay. Toàn thân cô nhịp nhàng, uyển chuyển như một “nghệ sĩ xiếc tài ba” giật lên những chú cá, chưa kịp quẫy mình, đã rơi xuống lòng xuồng ở phía sau lưng, mà cô không hề phải ngoảnh lại để tháo gỡ.
Cứ thế, hai bắp chân trần thay phiên tạo sóng tung bọt. Chỉ lúc nào con cá mồi nhạt mùi tanh, Lan mới ngưng nghỉ vài giây để “băm dập” phần còn lại của con mồi; xong lại cầm cần liên tiếp “phất” sợi dây cước có đính lưỡi câu vun vút như bàn tay phù thủy, để bắt những con cá dài khoảng mươi phân rơi xuống lòng xuồng.
Bố con ông lão sống âm thầm như vậy với niềm hy vọng mong manh: Khi nào đất nước yên bình, con mình mãn hạn lính trở về. Người con dâu cũng nén lòng chờ đợi. Niềm vui bây giờ, Lan dồn vào đứa con. Tiếng khóc, tiếng cười, lời bi bô tập nói của nó làm vơi đi nỗi tĩnh lặng trong khoang thuyền hẹp. Còn ông lão nếu không lau quét sạp thuyền, buộc lại cái quai chèo, ông lại ngồi chết lặng trước ban thờ có bức ảnh Đức mẹ đồng trinh. Thỉnh thoảng ông còn nhận chở hàng thuê cho mấy bà buôn vặt, kiếm thêm tiền ông cháu tiêu pha. Mẹ đứa bé thì lo cơm nước, giặt giũ. Lừa khi con ngủ Lan lại đẩy chiếc xuồng, sắm vai “nghệ sĩ xiếc” buông câu. Tối, cô kéo mấy cái vó tôm bên đìa cạn. Cuộc đời tưởng vậy, trôi đi thì một buổi chiều, mặt trời đỏ rực, có người lính đến báo cho Lan một tin dữ: Chồng cô đã tử trận, trong một cuộc giao tranh hoàn toàn không cân sức. Những người giữ đảo, phần lớn bị giết. Số bị thương, chúng dòng dây ném xuống biển. Anh ta và một số sống sót trở về.
Lan gần như chết lặng. Đứa con rúc đầu vào vú mẹ khóc thét. Anh lính ngây người trước một nỗi đau. Mặt anh ta đanh lại. Người thiếu phụ thiếu chút nữa đổ gục xuống sạp thuyền. Ngoài kia gió chiều thổi mạnh. Con thuyền tròng trành lắc lư. Dù có quay mặt đi, anh lính vẫn nhận ra khuôn mặt của người thiếu phụ, giống với gương mặt của Đức Mẹ Đồng Trinh trong bức ảnh: Ánh mắt ấy, cặp môi kia với sống mũi dọc dừa, trông vừa thánh thiện, vừa đượm nỗi u buồn.
Con đò hẹp hai khoang. Mẹ con Lan, nằm trong. Ông Đồng nằm khoang ngoài. Hai cha con cách nhau bởi tấm mùng ngăn muỗi. Khuya rồi, thằng nhỏ vẫn khóc ngằn ngặt. Mẹ nó dỗ không được. Thằng bé ngậm đầu vú mẹ lại nhả ra rồi oằn mình khóc. Lan bực mình phát vào đít con. Ông Đồng xót cháu-ngồi dậy, hỏi một câu buông xõng:
- Sao, nó quấy thế?
Lan không trả lời. Thằng bé quẫy mình. Ông Đồng vén tấm mùng. Mẹ nó vẫn nằm nghiêng. Ánh sao nhờ nhờ hắt vào. Khoang thuyền thơm mùi sữa. Khuy ngực Lan không đóng, lộ rõ bầu vú căng. Ông Đồng nhoài người đón đứa bé: “Ra ông, ra ông! Ôi, người nóng như hòn than thế này!...”.
Mải bế cháu, cánh tay ông va vào ngực Lan. Không bận tâm lắm, ông hỏi:
- Thằng bé nóng thế mà không thuốc thang gì ư?
Lan trả lời cụt ngủn:
- Uống thuốc “mọc răng đi tướt rồi!”
Khoang thuyền chìm trong bóng đêm, chỉ còn lại tiếng ru đứt đoạn của người ông dỗ cháu. Gần sáng, thằng bé khóc chán lại ngủ và giật mình thon thót. Lâu quá, sống lưng mỏi, ông Đồng rê người lại phía trong. Lan vẫn nằm bất động. Sợ mất giấc ngủ con dâu, ông vén tấm mùng, đặt con vào lòng mẹ. Lan không hề nhúc nhích. Phải mất vài giây sau, cô mới choàng tay ôm lưng đứa bé. Bỗng cả tấm thân cô rung lên, nức nở. Ông Đồng ngỡ nó xót con, nên lui ra phía ngoài, rồi ngả lưng xuống sạp. Ngoài kia sóng vẫn “ì oạp”. Con đò cựa mình, đung đưa. Thao thức mãi không ngủ được vì tiếng “ếch ộp” và những con ễch ương-chão chuộc gọi mưa. Cho đến khi ông Đồng vừa chợp mắt, thì Lan lại tức tưởi khóc. Ông Đồng giật mình hỏi: Cái gì thế con? Đứa con dâu không trả lời. Ông Đồng hốt hoảng, vén tấm mùng. Cô con dâu vẫn nằm bất động. Cháu ông đã ngủ say. Còn mẹ nó thì úp mặt lên gối.
Hai cánh vai rung mạnh. Nước mắt đầm đìa, thấm ướt cả gối. Đêm ấy, hai cha con mất ngủ. Thằng bé khóc như bị ma ám. Khoang thuyền chật, phủ nặng màn đêm.
Hàng tuần nay, ông Đồng hì hục, hết cắm cọc, nâng thuyền, cạo hà, khoan đinh, ghép ván, lại miết mạch hàn vá chỗ rò. Xong bên này, ông chuyển sang mạn bên kia làm cần mẫn như con chim cuốn tổ sau những trận gió táp, mưa sa. Công việc tu bổ hoàn thành, ông Đồng nhận chuyến chở hàng thí điểm. Thuyền chở dầm ngược dòng, nước không rò rỉ. Bộ quai chèo, ông thay mới bằng những sợi dây bện chắc. Cho đến một buổi sớm tinh mơ, ông Đồng thức dậy. Người con dâu cũng dậy theo. Ông nói với cô một câu gọn lỏn: “Ở nhà nhớ buông câu, thả vó. Ai có hàng thì nhận chở thuê!”.
Ngày đi, đêm nghỉ ròng rã hàng tháng trời, ông Đồng nhằm hướng đông mà tới. Mấy lần ra đến con đường nhựa, thỉnh thoảng một chiếc xe qua, ông Đồng vẫy tay-vẫy tay, nhưng người lái xe vẫn không dừng lại.
Cuộc hành trình tiếp tục, túi hành lý vẫn còn gạo sấy, mắm khô, một bình rượu “Trường sinh bất lão” và một chai nước suối chưa hết lại đầy. Đoạn đường giờ bớt gian nan, vì không xe ngựa thì ô tô đã giúp cho “đôi hài vạn dặm” của ông không đến nỗi gối mỏi-chân chồn.
Rồi, đến một ngày, mặt trời dậy trước cả biển, cũng là lúc ông Đồng đặt chân tới làng chài. Gió ào ạt thổi. Những con tàu bồng bềnh, lắc lư. Biển mặn mòi lẫn với mùi tanh của cá và ngư cụ, nên người nào cũng rắn rỏi với nước da đen xạm. Tất cả đang chuẩn bị cho một chuyến ra khơi. Trông họ khác nào những chiến binh, luôn phải đương đầu trước biển.
Giống như kẻ lữ hành, ông Đồng đặt túi-ngồi xổm, châm lửa hút điếu thuốc trên bãi cát. Mãi trưa, mọi người mới xúm lại hỏi han. Ông Đồng ngậm ngùi phân tỏ về: Dòng sông-bến vắng. Mẹ con-ông cháu, gắn với số phận lênh đênh trong khoang thuyền hẹp. Đến một ngày, tin thằng con chết trận. Cái tổ ấm bị xới tung tới mức: Đứa con dâu xé bỏ áo quần, nằm phơi mình dưới trăng, thì ai cũng bùi ngùi. Mấy bà, mấy chị mắt đỏ hoe, đưa tay gạt nước mắt rồi hỏi:
- Sao ông lại bỏ mẹ con nó trong con đò nát ra đây? Tội quá!...
- Tui… Tui nghĩ nát óc ra rồi, không thể ở đấy mãi được. Đau tâm lắm, nhưng vẫn phải dứt áo ra đi! Tui đã lần đường về quê, cầu khấn cha mẹ, vợ và người em trai mà cũng không thành. Bởi cả khu nghĩa địa, bom Mỹ đã biến thành một vũng ao. Giờ, tui chỉ còn một ước nguyện là: Ra được tới đảo cát vàng!...
- Ông ra đó làm chi?
- Tui phải ra tìm bằng được, chỗ thằng con bắn đến viên đạn cuối cùng ở bên khe đá, thì một mũi lê sáng loáng xỉa từ phía sau lưng. Trước khi tắt thở, bạn nó còn nghe tiếng thằng Tâm gọi: “Ba ơi! Lan ơi!...”.
Nói rồi, ông Đồng ôm ngực ho: “Cho dù không còn hài cốt. Tui sẽ đắp ở đấy một ngôi mộ, để hồn nó có chỗ đi về!”.
Nghe vậy, mọi người chết lặng. Một bàn tay đặt nhẹ lên cánh vai gầy:
- Ông ơi, không thể ra đấy được đâu.
- Sao? - Ông Đồng sửng sốt.
- Nơi ấy… chúng nó chiếm mất rồi!...
Giống như nghe một tiếng sét, ông già khốn khổ đổ gập người. Ai nấy xúm vào đỡ. Gần nửa tiếng sau như người bừng tỉnh, ông Đồng giơ thẳng cánh tay lên trời. Còn bao nhiêu sức lực, ông dồn vào tiếng thét: “Nhứt định tui phải ra đảo Cát Vàng. Dù tan xương nát thịt hay phải chết. Tui sẽ chết ở chính nơi thằng con và đồng đội nó đã nằm!
Tiếng thét của ông nghẹn lại, khiến những người xung quanh không ai cầm nổi nước mắt.
Ý kiến ()