Nguyễn Đăng Đạo (còn có tên là Đăng Liên), sinh năm Tân Mão (1651), người thôn Hoài Bão, xã Liên Bão, huyện Tiên Du. Năm 33 tuổi, ông đỗ đệ nhất Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Quí Hợi, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 đời Lê Hy Tông (1683).
Năm Nhâm Thân (1692), ông được cử đi sứ phương Bắc để thương lượng về việc đòi lại 3 động: Ngưu Dương, Hồ Điệp, Phổ Viên thuộc huyện Vị Xuyên, xứ Tuyên Quang (nay thuộc tỉnh Hà Giang). Khi trở về, được thăng chức Đô Ngự sử, Nhập thị Kinh diên, tước Thọ Lâm tử, sau, được thăng lên Thượng thư bộ Binh, Tham tụng, kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Bá. Ông mất năm Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719), thọ 69 tuổi. Khi mất, ông được tặng chức Thượng thư bộ Lại, tước Thọ Quận công.
Sinh thời, Nguyễn Đăng Đạo sáng tác nhiều thơ chữ Hán, nhưng đã bị thất lạc nhiều, chỉ còn 8 bài được người đời sau chép trong sách “Toàn Việt thi lục”. Ngoài ra, ông còn được nhiều địa phương mời soạn hoặc nhuận sắc văn bia. Hiện nay, chúng tôi đã sưu tầm được 10 văn bia do Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo soạn hoặc nhuận sắc cho một số địa phương. (Phần lạc khoản trên các văn bia chỉ ghi người soạn là Nguyễn hoặc Nguyễn Phủ, nhưng căn cứ vào quê quán, học vị, năm đỗ, chức tước, chúng tôi xác định tác giả hoặc người nhuận sắc các văn bia đó là Nguyễn Đăng Đạo). Sau đây là một số văn bia do Nguyễn Đăng Đạo soạn hoặc nhuận sắc.
1. Những văn bia do Nguyễn Đăng Đạo soạn
- Văn bia “Hậu Thần bi ký” ở xã Dương Quang, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, dựng vào năm Chính Hòa thứ 24 (1703). Nội dung: Ông Thiều Đường nam Trần Xuân Sĩ tự là Phúc Toàn hiệu là Viên Khoan làm quan trong phủ chúa có nhiều công đức với dân. Ông đã cúng cho dân xã 150 quan tiền để lợp lại 3 gian 2 chái đình, lại cấp thêm 2 mẫu 5 sào ruộng, 8 sào ao để chi dùng vào việc hương hỏa. Quan viên hương lão bản xã nhớ ơn công đức, suy tôn vợ chồng ông làm Hậu Thần. Văn bia ghi vị trí các ruộng cúng, bài văn tế và nghi lễ cúng giỗ hàng năm.
- Văn bia “Phụng sự Phạm gia bi ký” ở xã Cẩm Bào, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 3 (1707). Nội dung: Quan Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu Phó Tri Thị nội Thư tả Binh phiên Thị Nội giám Tư lễ giám Tổng Thái giám Phạm Đình Liêu, tước Khoan Hải hầu, người xã Cẩm Bào, làm quan Quản Tứ vệ, từng được cử đi sứ phương Bắc, được Thăng chức tổng Thái giám, Quản Hữu tượng cơ, được triều đình ân sủng. Năm Kỷ Sửu được thăng Thị vệ, tước Khoan Quận công. Ông giúp dân làm một ngôi đình 3 gian 2 chái và cúng các thửa ruộng kỵ điền. Dân xã Cẩm Bào suy tôn ông và tứ thân phụ mẫu làm Hậu Thần. Văn bia có ghi đoan ước của xã Cẩm Bào về các thể thức cúng giỗ; vị trí, diện tích các thửa ruộng.
- Văn bia “Quí Đài công lưu phúc bi” tại đình xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Bia 4 mặt, lòng bia rộng 52 x 90 và 60 x 145 cm, 61 dòng với khoảng hơn 2000 chữ, dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710). Nội dung: Hoàng thân tự Như Kính, húy là Thuấn, là con của bà Thị nội Cung tần họ Nguyễn, người bản xã, sinh năm Tân Mùi (1691), đến năm Mậu Tý (1708) chẳng may mất, khiến nhà vua, họ hàng cùng dân xã vô cùng thương tiếc. Vua ban tên thụy cho ông là Thông Mẫn công và cấp tiền của để an táng. Dân xã dâng tấu xin tôn ông làm Hậu Thần, Hậu Phật, bèn được Vua phê chuẩn. Dân làng lại đem số ruộng mà ông mua lúc còn sống cấp cho xã 12 mẫu và 1 thửa ao; cấp cho hội Tư văn 1 mẫu, giao cho nhà chùa 3 mẫu, dành 3 mẫu cho người làm lễ, trông nom và quét dọn nơi thờ tự. Bản xã lập đoan ước về nghi thức cúng giỗ, tế lễ, mẫu văn tế các kỳ hàng năm đối với Thông Mẫn công và bà cung tần họ Nguyễn và cha mẹ bà.
- Văn bia “Trần quí thị lưu trạch bi” tại thôn Trung Mầu (nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội), dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710). Nội dung: Thị nội cung tần Trần Thị Ngọc Nhuyễn, quê huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay thuộc tỉnh Nghệ An) là người có nhan sắc, công dung ngôn hạnh, được nhà vua rất yêu quí, ban cho nhiều vàng bạc. Bà chọn xã Trung Mầu để dựng nhà. Từ khi về đây, bà luôn yêu thương giúp đỡ dân làng. Năm Quí Mùi, khi dân làng bị đói kém, bà đã cúng 400 quan tiền và 4 mẫu 5 sào ruộng để giúp đỡ. Dân làng nhớ ơn, tôn bà làm Hậu Thần, Văn bia có ghi thể thức cúng tế hàng năm và diện tích, vị trí các thửa ruộng.
2. Các văn bia do Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo nhuận sắc
- Văn bia không có tiêu đề ở xã Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, dựng năm Chính Hòa thứ 18 (1680). Nội dung: Đô Thái giám Phương lộc hầu Ngọ Công Quế, quê xã Quế Trạo là người có tài, được tuyển vào làm thị hầu trong chốn màn trướng ở phủ Chúa và được bề trên ân sủng, cho ra coi việc quân, lập được nhiều công trạng. Ông bản chất thuần phác, hiếu đễ, thương người. Ông từng xuất tiền giúp dân xã làm đình, đặt ruộng cho dân phụng thờ thần linh. Dân các xã đồng tình thờ ông tại đền Linh Quang.
- Văn bia “Cơ Quận công chi bi” ở thôn Báo Đáp, xã Hạ Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, dựng năm Chính Hòa thứ 20 (1688). Nội dung: Cơ Quận công Nguyễn Thành Trân người xã Bát Tràng, sinh năm Dương Hòa thứ 7 (1641), mất năm Chính Hòa 14 (1693). Năm 12 tuổi vào hầu chúa, sau, được thăng lên chức Thái giám, rất được Chúa tin dùng. Ông nhận cố mệnh phò Chúa lên ngôi, lại được cử đi đánh giặc ở Lạng Sơn, Tuyên Quang, đều lập được công lớn. Cha mẹ và các con ông đều được tập ấm cực kỳ vinh hiển. Nay 3 con trai ông là Nguyễn Thành Chương, Nguyễn Thành Lý, Nguyễn Thành Vĩ dựng bia kỷ niệm.
- Văn bia “Sùng báo bi ký” ở Tề Lỗ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên, dựng năm Chính Hòa thứ 11 (1690). Nội dung: Ngài Thị nội giám Thiêm Thái giám Viên Tường hầu họ Bùi, người thôn Ao Bạc xã Tề Lỗ, huyện An Lạc đã chi tiền giúp dân xây đình, lại cho dân 7 mẫu ruộng để cày cấy. Quan viên hương lão trong thôn cảm kích xin được cúng giỗ ông và cha mẹ ông.
- Văn bia “Sùng báo bi ký” ở xã Tề Lỗ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên, dựng năm Chính Hòa thứ 11 (1690). Nội dung: Viên Thái giám họ Bùi, người thôn Ao Bạc cúng cho xã 50 mẫu ruộng và một số tiền để bản xã tu tạo đình. Hương lão, lý dich vu seo và dân làng bầu bố mẹ ông làm Hậu Thần. Văn bia ghi lệ cúng tế hậu Thần hàng năm, ghi rõ vị trí, diện tích các thửa ruộng.
- Văn bia “Vạn thế phụng tự bi ký” ở xã Quần Trọng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710). Nội dung: Đương triều nguyên lão phụng sai Kinh Bắc xứ Trấn thủ quan, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Nam quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Thiếu bảo Thạc Quận công Lê Thời Hải người thôn Đông, xã Phú Hào, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hóa. Ngài có hơn 50 năm tận lực phụng sự quốc gia, kết duyên với Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Trác, huân danh để lại cho muôn đời con cháu. Ông đã cấp cho dân địa phương 7800 quan tiền cổ và 891 mẫu thổ điền để dùng vào việc công và việc thờ cúng. Nhân dân địa phương lập điều ước thờ phụng cha mẹ, vợ chồng ông hàng năm như bậc thần minh.
- Văn bia “Lê tướng công sự nghiệp huân danh bi ký” ở xã Quần Trọng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1716). Nội dung: Ghi lại sự nghiệp của Đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân, Nam quân Đô đốc phủ, Tả Đô đốc Thự phủ sự Thiếu phó Thạc Quận công Lê Thì Hải. Ông sinh năm Kỷ Mão (1639). Năm 18 tuổi theo người bác đi phá giặc ở Nam Hà, năm 32 tuổi thu phục được xứ Tuyên Quang. Năm 30 tuổi kết duyên với Quận chúa Lê Thị Ngọc Trác. Sau, nhiều lần lập được công to, được vua khen thưởng, phong chức tước. Ông mất năm Bính Thân (1716), thọ 78 tuổi, được phong tặng Thái phó, Lê tướng công, ban thụy là Hùng Duệ. Lễ an táng được tổ chức long trọng tại quê nhà. Văn bia khắc lại bài chế phong tước Quận công.
Tìm hiểu nội dung các văn bia trên đây, chúng tôi có mấy ý kiến sau:
Một là với 10 văn bia trên đây, số văn bia do Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo trực tiếp soạn là 4, còn số văn bia do ông nhuận sắc là 6; Thời gian được mời soạn hoặc nhuận sắc chủ yếu là từ năm 1688 đến năm 1710, tức là sau khi ông thi đỗ Trạng nguyên và thời kỳ làm quan. Có 1 văn bia, ông được mời nhuận sắc khi chưa thi đỗ Trạng nguyên (năm 1680) và 1 văn bia do ông nhuận sắc khi đã cao tuổi (1716). Điều đó chứng tỏ, ông là người sớm nổi tiếng từ khi chưa có học vị. Mặt khác, Những nơi mời ông soạn hoặc nhuận sắc văn bia chủ yếu là ở Hà Nội, Bắc Giang, Hải Dương, Vĩnh Yên, nhưng có 2 trường hợp, ở tận huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa cũng mời ông. Điều đó chứng tỏ tên tuổi của ông có ảnh hưởng rất rộng.
Hai là, từ nội dung 10 văn bia trên, chúng ta thấy tính minh bạch của sinh hoạt cộng đồng làng xã là rất cao. Văn bia nào cũng kê rất chi tiết số ruộng, số tiền, tên xứ đồng,… cung tiến và thể lệ, lễ vật cúng tế Hậu Thần gồm những gì. Mặt khác, việc suy tôn Hậu Thần và dựng bia được bàn rộng rãi trong làng, điều đó chứng tỏ tính dân chủ trong cộng đồng làng xã ngày xưa rất được tôn trọng.
Ba là, từ nội dung văn bia, chúng ta thấy, tác giả văn bia có chủ ý ca ngợi việc thiện, có ý thức giáo dục việc làm thiện cho mọi người dân.
Ý kiến ()