Dù đọc truyện ngắn hay tùy bút của nhà văn Đỗ Chu đều thấy thấp thoáng nét văn hóa, phong cảnh vùng đất, vùng người Kinh Bắc trải suốt nghìn năm. Ông viết ít, viết chậm nhưng kỹ. Trang viết nào của Đỗ Chu cũng nặng vì nó mang nhiều lớp nghĩa. Văn ông cũng giống như người vậy, giản dị mà sang trọng. Có người nói, Đỗ Chu như khối đá quý đa diện, đa sắc, luôn lấp lánh và biến ảo khôn lường. Năm 2012, nhà văn Đỗ Chu là một trong số 12 cá nhân được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học. Nhân dịp đầu xuân, phóng viên Báo Bắc Ninh có cuộc gặp gỡ, trò chuyện với nhà văn Đỗ Chu.
Phóng viên: Thưa ông, được biết ông vừa được Đảng và Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, quê nhà rất vui mừng trước sự kiện này. Nhân dịp đầu xuân, ông muốn nói điều gì với bà con quê nhà khi đón nhận phần thưởng cao quý này?
Nhà văn Đỗ Chu: 10 tuổi, mẹ tôi dắt tôi về Bắc Ninh. Bà là người gốc Châu Khê (Từ Sơn). Tôi vốn là học sinh trường Hàn Thuyên suốt từ cấp I đến hết cấp III. Những năm còn nhỏ, tản cư trên vùng Thượng Bắc Giang-Thái Nguyên là trường Hàn Thuyên đi kháng chiến thì tôi đã là học sinh ở đó. Một trong những lý do gia đình dọn về Bắc Ninh sau hòa bình lập lại năm 1954 là vì mẹ tôi muốn gửi gắm mấy đứa con theo trường. Đời tôi có những thầy cô tuyệt vời. Bây giờ nhìn lại tôi vẫn nhớ đến họ như ngày nào mình còn nhỏ. Đầu tiên phải kể đến cô giáo Chương, cô giáo Vinh Hương, cô giáo Mận, cô Nghiêm Chưởng Châu… và rất nhiều thầy giáo sang trọng, lịch lãm. Chính từ cái nôi ấy mà ra tôi. Nếu tôi nói trường Hàn Thuyên những năm ấy là một vẻ đẹp văn hóa rất đáng tự hào của miền đất này thì chắc cũng không có ai phản đối. Vẻ đẹp ấy có được là bởi nó mang truyền thống của nghìn năm văn hóa Kinh Bắc.
Nhà văn Đỗ Chu.
Tôi biết ơn 10 năm học ở ngôi trường ấy. Có nghĩa là đời tôi đã mang ơn và luôn luôn xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của một mảnh đất đã được lịch sử lựa chọn làm cái nôi sinh thành của một dân tộc. Điều này thì sử sách đã chứng thực, nhiều học giả đương đại đã nói thế.
Sau hôm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, bạn bè gặp đã chúc mừng nhiều, tôi chỉ biết nói: Thì anh em thương mà ủng hộ, mà cho chứ tài cán gì lắm. Nói thế là nói thật nhất. Nếu phải thắp hương tỏ lòng biết ơn trước vinh dự này thì tôi nghĩ phải thắp hương nghìn năm vùng đất, vùng người Kinh Bắc.
Phóng viên: Ông từng viết, “Có con sông Thương chảy vào đời tôi, lại có dòng sông Cầu chảy qua đời tôi”. Xin ông nói đôi điều về những trang viết đầu tay của mình vì nó đã được viết trên chính mảnh đất Bắc Ninh-Kinh Bắc?
Nhà văn Đỗ Chu: Đây là một câu hỏi thú vị. Hai câu thơ đó tôi viết ở tuổi sắp 70. Chỉ hai câu thơ ấy cũng đã đủ để thiên hạ hiểu đời tôi gắn bó như thế nào với vùng Kinh Bắc.
Trong những trang đầu tiên của tôi có ngọn núi Voi với những chùm cỏ ngọt ngào hương mật (Hương cỏ mật), lại có một khu vườn nằm lọt giữa mấy quả đồi của vùng Tiên Du rất nhiều cò (Thung lũng cò), lại có một đêm vớt cá bột ở cánh đồng Đay bãi Chằm Chỉ ven sông Đuống… Rất nhiều, rất nhiều những trang về sau hình bóng Kinh Bắc, người, phong cảnh và hơi thở văn hóa của nó đã tràn ngập một cách trân trọng và với tôi là thiêng liêng.
Nhân đây tôi muốn nói, tôi là một nhà văn đã được thở bằng một nền văn hóa dân tộc trong đó miền Kinh Bắc là sự bắt đầu đầy duyên phận. Phương tây có câu “Anh bắt đầu như thế nào thì anh sẽ được kết thúc như thế”.
Phóng viên: Thưa ông, những gì ông đã làm hôm nay đều đã được bạn đọc đón nhận và giữ gìn. Được biết sang năm ông vào tuổi 69, âm lịch thế là đã 70 là tuổi “xưa nay hiếm”, rất nhiều người vẫn muốn được hỏi ông sẽ còn làm gì vào những năm tới đây?
Nhà văn Đỗ Chu: (Cười!). Ở tuổi này, sức khỏe nghe cũng không còn mạnh mẽ như những năm trước nhưng hình như càng về già trong lòng càng thương nhiều hơn, yêu nhiều hơn. Từ nội lực ấy, không một người cầm bút nào là lại không thèm được nghĩ, được viết tiếp như con chim cuối đời muốn gửi lại cho mai sau những tiếng hót cuối cùng. Đó là những âm thanh trân trọng, gửi gắm.
Một lẽ nữa cũng muốn được thưa với quê nhà, tôi đang cố gắng để làm cho xong mấy cuốn đang viết dở, phần lớn là những trang viết về quê nhà. Có một tập nay mai sẽ in nhanh là tập “Đường xa” cũng là tùy bút. Một tập sẽ còn phải cân nhắc, bổ sung nhiều, viết về lịch sử tư tưởng của dân tộc. Đây là một tập nghiên cứu, ấp ủ từ lâu mà cũng không dễ. Nó mang một chủ đề dài dài “Sơ lược lịch sử tư tưởng Việt Nam hay là có một hằng số tư tưởng từ Trần Hưng Đạo qua Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tới Hồ Chí Minh”. Cũng chả biết liệu có kịp đưa tới bạn đọc, mỗi tuổi mỗi già, mới ngày nào còn là một đứa bé con tập tọng cầm bút nay chợp một cái tóc đã bạc. Nhiều đêm thức húng hắng ho mà việc đời vốn đã ngổn ngang nay càng lắm ngổn ngang.
Phóng viên: Chúng tôi biết nhà văn là người nặng lòng với quê nhà Kinh Bắc. Vậy ông có thể kể một vài điều mà ông yêu quý nhất?
Nhà văn Đỗ Chu: (Cười!) Yêu nhất là người sau đến cảnh rồi mới đến những thành tựu đã có xưa và nay.
Phóng viên: Có người bảo Đỗ Chu “chảnh”, nhiều lúc không dễ gần, đôi khi khó tính. Vẫn biết đó là cá tính riêng nhưng cũng vẫn muốn hỏi, ông nghĩ thế nào về điều này?
Nhà văn Đỗ Chu: Tôi xem đó là một sự nhắc nhở nhưng có thể điều đó nếu đúng thì cũng chỉ đúng ở một lúc nào đó mà thôi. Thế chị cho tôi biết “chảnh” là gì (cười!)?
Phóng viên: (Cười!) Thưa, “chảnh” là cách gọi của giới trẻ bây giờ với những người có chút kiêu ngạo.
Nhà văn Đỗ Chu: Thực ra tôi là người nhũn nhặn nhưng đúng là khó tính. Tôi luôn đòi hỏi ở tôi trong công việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày, đôi lúc có thể nói là sự đòi hỏi gay gắt. Chị bảo, cầm bút đâu có phải là tùy tiện cho vui. Ở tôi vẫn có mang một chút truyền thống Nho giáo. Tôi hay nói đùa cho vui nhưng sự thật lòng lúc nào cũng canh cánh, luôn luôn muốn mình phải cố gắng, phải giữ gìn và phải xứng đáng với gia đình mình và với nhân dân mình. Tôi mỉm cười coi khinh mọi sự tầm thường, xoàng xĩnh. Tôi yêu mọi sự giản dị, xa lánh mọi dối giả, khoa trương, đỏm dáng, dông dài…
Phóng viên: Thưa ông, trong khuôn khổ của trang báo này, ông thấy liệu chúng ta nên bàn vấn đề gì trước thềm xuân mới?
Nhà văn Đỗ Chu: Đến mùa Xuân, cây cỏ theo tự nhiên mà vui vẻ ra hoa ra lá nhưng với mỗi người thì lại không chỉ thế được. Làm người phải biết ngẫm nhiều, lo toan và trách nhiệm nhiều. Tôi nghĩ không phải chỉ có những người cầm bút lo toan đâu, đời sống của quê nhà của dân tộc đòi hỏi cán bộ các cấp chúng ta cũng phải biết ý thức về điều này.
Cũng như bất kỳ ai được sống thêm 1 ngày, 1 năm, tôi đều thấy phải biết ơn đời. Đời là cái gì rất rộng lớn mà cũng rất cụ thể như bát cơm, chén nước, viển vông xa xôi như một nỗi nhớ như một lời hàm ơn. Đời tôi, ngoài quê nhà còn phải biết chịu ơn thiên hạ. Thành tôi-một người viết hôm nay là kết quả của sự dìu dắt của Bộ Tư lệnh quân chủng Phòng không không quân, Tạp chí Văn nghệ quân đội và Hội Nhà văn-nơi cuối cùng tôi về công tác. Đó là những nơi tôi đã phục vụ suốt thế kỷ vừa qua, đã được dìu dắt để trưởng thành.
Mận - Tranh của Đỗ Chu.
Một điều nữa tôi muốn nói ở đây, sau khi lập lại tỉnh Bắc Ninh đã có trên 15 năm chuẩn bị những bước đi đầu tiên của mình một cách nhiều cố gắng. Vui mừng là chúng ta đã tìm ra được một hướng đi lâu dài, đúng đắn có thể tin cậy. Đất nước bước vào thời kỳ làm kinh tế thị trường, rất mới mẻ và cũng không dễ dàng. Nhưng hình như Bắc Ninh cũng đã làm được nhiều việc, tôi nhìn thấy đời sống nhân dân tốt đẹp lên nhiều. Nhìn chung là thế. Tôi thấy xúc động khi được biết kỳ thi Đại học vừa qua Bắc Ninh được xếp ở tốp đầu, nhiều tài năng trẻ đỗ đạt cao, nền giáo dục của Bắc Ninh rất đáng tự hào cho dù vẫn còn không ít những tồn tại phải khắc phục.
Một nền giáo dục vững chắc, một nền văn hóa có đẳng cấp là niềm mong mỏi và cũng là lo âu thường trực của chúng ta. Bắc Ninh là một trong số không nhiều địa phương đã và đang biết chăm lo, đấy là cách nhìn lâu dài. Rất nhiều người trong thiên hạ đến Bắc Ninh về đều bày tỏ với tôi sự quý mến này. Kinh tế và văn hóa là hai chân của một cơ thể sống, Bắc Ninh được người ta nói vui là nó không bị “thọt”.
Phóng viên: Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện rất vui. Nhưng trước khi chia tay vẫn muốn được hỏi những ngày này cuộc sống riêng tư của nhà văn có gì cần kể với bạn đọc?
Nhà văn Đỗ Chu: Năm nào cũng thế, Ban Biên tập Báo Bắc Ninh ra tận Hà Nội tổ chức Hội nghị cộng tác viên và mời nhiều nhà văn, nhiều nhà báo từng gắn bó với quê hương Bắc Ninh viết bài cho báo Xuân. Tôi và nhiều người khác vẫn cộng tác thường xuyên. Năm nay cũng vậy, mấy hôm rồi ngồi ở nhà loay hoay viết cho báo Xuân Bắc Ninh, Bắc Giang. Cũng muốn nói đôi điều về những gì mà mình thương nhớ với bạn bè, bà con ở nhà.
Chị nhìn lên tường thì thấy những gì riêng tư của tôi. Nó đã được phô bày lên những bức sơn dầu. Đây là chân dung cô Nhu - bà xã nhà tôi, xuất thân cũng là một học sinh Hàn Thuyên. Vợ chồng, con cái chúng tôi đều là học sinh ở đấy. Thế còn đây là bức chân dung tôi vẽ bà Vũ Thị Năm, nguyên là cán bộ phụ nữ của tỉnh ta. Bà là người Thuận Thành. Ở Bắc Ninh bây giờ nhà bà cách nhà tôi một bức tường cong queo. Lâu tôi cũng không về, tranh vẽ bà Năm tôi vẫn mang ra Hà Nội, cũng để ở một chỗ trang trọng bên cạnh cha mẹ tôi.
Trong các loài hoa, tôi thích Mận. Khổng Tử thời xưa bảo nó là quán hoa đấy. Nó sạch, thanh tao mà mộc mạc. Đấy là cái đức lớn của trời đất.
Những ngày xuân, sướng nhất là được đi dọc bờ mấy con sông quê nhà, mưa bụi bay, gió se lạnh, gặp già, gặp trẻ, gặp trâu bò, ta thấy gần gụi biết bao. Như dây khoai bò trên cánh đồng, bông súng ngoi trong ruộng…
Ý kiến ()