Qua đông lại tới xuân. Cùng thời gian dòng đời vẫn đang trôi mải miết. Vào những ngày then chốt của một năm, những ngày Tết, giữa xốn xang tiếng hát nụ cười, đào mai tưng bừng khoe sắc, lòng ta không khỏi chạnh nhớ đến những gương mặt thân yêu, nay đã người còn kẻ mất, đấy là những gương mặt văn hóa, những gương mặt như lửa thắp, tỏa sáng cùng năm tháng.
Giờ đây tôi muốn bắt đầu bằng những kỷ niệm lấy từ quê nhà. Trước tiên xin được kể một đống đất tưởng vớ vẩn mà lại rất lạ lùng. Nó nằm ven quốc lộ một, ở đầu bắc phố Phủ Từ Sơn, mỗi lần qua tôi thường bắt chước khách bộ hành ném thêm vào một cục đất nho nhỏ. Người đời gọi nó là mả ông Đống hoặc là mả thằng ăn mày. Lâu lâu thấy mả thằng ăn mày nổi lên cao quá, công nhân bảo dưỡng đường lại phải gọi nhau ra xúc vứt xuống mấy cái ao. Nhưng rồi rất lặng lẽ chẳng mấy chốc mả thằng ăn mày lại nổi lên, nó không chịu mất đi và nó có tự bao giờ chẳng ai rõ, chỉ biết trước khi có ta đã có nó rồi.
Đóng vai trò chủ yếu trong việc bồi đắp cho mả thằng ăn mày không phải ai khác mà chính là mấy bà quen chạy chợ quanh vùng. Chợ Phủ là một nơi tấp nập, tuần ba phiên, còn gọi là chợ Giầu. Khách đến chợ ai chả mong gặp được sự hòa thuận, ai chả ngại gặp phải sự lừa lọc hoặc ế ẩm thua lỗ. Và thế là mọi người, không rõ tự đâu mà ai cũng đặt lòng tin vào sự phù hộ của thằng ăn mày chết thiêng từ bao giở bao giờ. Người ta cảm thấy có sự may mắn nếu trên đường vào chợ nhớ nhặt một hòn đất, hòn gạch ném lên cái mả ấy.
Có một lần nhà văn Nguyên Hồng trên đường về Bắc Giang đã dừng xe đạp bên mả thằng ăn mày. Ông vuốt râu tủm tỉm cười mà hỏi tôi, anh hãy nói xem ngôi mả này giống cái gì trên đời? Tôi lúng túng chưa biết nên trả lời ra sao thì ông đã nói, nó chính là đời thằng nhà văn chúng ta đấy. Đời thằng nhà văn là do quê hương xứ sở nó bồi đắp nên, là do ông trời ông ấy phù chú mà thành, cho nên nó suốt đời phải mang nợ, trả được món nợ đời đâu có dễ, và chỉ có thể trả bằng tác phẩm mà thôi. Nhưng một khi, ai đã trả xong gánh nợ đó thì người ấy sẽ là bất tử.
Cứ theo ý tứ ấy mà ngẫm thì không phải chỉ có các nhà văn, mà còn nhiều người khác nữa, nhiều nhiều lắm, ở mọi lĩnh vực đều có thể thành bất tử. Xin lấy một ví dụ, đó là cuộc đời và sự nghiệp ông Trần Đức Thảo, một Tiến sĩ triết học từng sống cùng thời với chúng ta. Ông Thảo gốc làng Song Tháp, xã Châu Khê, Phủ Từ Sơn, xuất thân là con trai thứ trong một gia đình có cụ thân sinh làm viên chức bưu điện, ở quê quen gọi là cụ Hàn Tiến. Con sông đào Ngũ Huyện Khê chảy vòng quanh làng, nằm ngay trước cổng làng bên gốc đa cổ thụ là một chiếc cầu nho nhỏ có trụ xây bằng gạch, cũng là do gia đình ông bỏ tiền xây tặng dân làng. Ông Thảo không sinh tại làng mà sinh ở Thái Bình, lớn lên ở phố Hàng Đường, Hà Nội, là học sinh Lycée Albert Saraut, hết tú tài vào học Luật năm sau được chọn gửi qua Paris, vào một trường nổi tiếng có truyền thống, Ecole Normale Supériuere. Những năm về nước lúc ông làm giáo sư, lúc cắm cúi dich vu seo sách, nhưng việc được xem là cốt yếu cho cả một đời là việc viết sách. Chỉ cần viết một cuốn triết học. Mùa hạ 1997 tôi qua Mỹ, một giáo sư người New York đã đưa tôi xem cuốn sách của ông Thảo vừa được dịch cho thiên hạ, A.I.Ghertxen nói nhà văn không phải là thầy thuốc mà là chính nỗi đau của đất nước. Nghe to tát quá, tôi không dám bàn Kim Lân là ở trong số nào, thầy thuốc hay nỗi đau, chỉ muốn nói ông là nhà văn của người nghèo, trước sau ông vẫn chỉ là nhà văn của những ai cùng khổ mà thôi. Bản thân ông từ nhỏ cũng đã phải lăn lóc trong nghèo khổ, suốt đời sống giản dị, túng thiếu cần kiệm mà trong sạch. Giờ đây ông đã qua đời nhưng với mỗi chúng ta Kim Lân không bao giờ mất, đây chẳng qua cũng chỉ là một chuyến đi xa, rất xa mà thôi. Tưởng như ông vẫn đang ngồi đó, một vóc dáng lom nhom nhỏ thó, chứa đựng một sinh linh sống động, một nhân cách khoan hòa mà hết sức cứng cỏi, một cuộc đời từng trải khiến ta phải thèm muốn.
Ông là một sự bí hiểm chẳng khác nào những chiếc lọ được bày la liệt trong căn phòng chật chội của ông vậy. Những lọ gốm Phù Lãng, Thổ Hà, Lò Chum, Hòa Bình, cái cao cái thấp, cái to cái nhỏ, mỗi cái một màu men một dáng đứng, tất cả đều có chung một vẻ quê mùa. Một vẻ gì để ta dễ cảm thấy gần gụi với gốc gác xa xưa, với bà con nơi quê nhà lam lũ, với những lầm than mà dân tộc từng nếm trải và nâng niu những nét tài hoa không thua kém một ai của ông cha mình thuở trước. Nhiều ngày nhiều tháng ông đã thu mình ngồi yên lặng trên chiếc tràng kỷ ọp ẹp để ngắm những cái lọ ấy. Ông đã lặn lội nhặt chúng lên từ các xứ đồng, vớt chúng lên từ các bụi tre bụi chuối, góc bếp góc sân, có cái vốn đựng tương đựng muối, có cái lăn lóc vạ vật ở sau vườn. Một ngày chúng được bàn tay ông đặt vào, xoay ngang lật ngửa, thế là lên ngôi, bàn tay ông như có phép màu, chỉ cần xoa nhẹ lớp bùn là men hiện ra, dáng hiệu ra, là hồn cốt nhập vào. Thật tài tình, ông đang chơi mà cũng là đang làm cái việc gọi hồn cho những cái lọ. Hay là ông đang gửi hồn mình vào chúng, chỉ mình ông biết chúng đang chuyện trò những gì với mình. Ông bảo muốn đánh giá nổi một cái lọ cũng phải học hỏi nhiều, mò mẫm nhiều. Tiêu chuẩn chung là nhất dáng, nhì men, thứ ba là nguyên, thứ tư là hiếm. Đã không hiếm thì cũng không quí. Đứng về kỹ thuật mà nhìn nhận lại phải theo một tiêu chuẩn khác, nhất xương nhì da thứ ba đến lửa. Lửa phải hoàn nguyên mới ra được những men quí như men ngọc, men thúy hồng. Một cái lọ men chìm mờ hơn hẳn những đồ bóng loáng phù quang. Có lẽ, thuật xem người cũng vậy mà xem tranh cũng vậy. Là cái lọ đất nung tầm thường mà vẫn thật quí thật sang, trong khi màu mè xanh đỏ lại chứng tỏ nhà quê, nó cũng là chuyện đời vậy. Xương ở đây là đất còn men là da, bởi thế cây đa còn gọi là cây da, ta đốt cây đa để lấy than mang về bán cho các làng gốm chế men tráng lọ. Những cái lọ mang dáng quê hồn nước, những cái lọ im lặng, những cái lọ biết nói.
Tết trước thấy ông chọn chơi cành đào phai cắm trong lọ mộc, tết rồi ông tự dưng dở chứng thèm chơi chữ thảo, mà ông nào có biết Nho, ông bỗng cảm thấy lắm lúc trông vào chữ còn thích hơn trông vào tranh. Cái chữ Hán được viết thảo dù không đọc nổi vẫn đủ thấy đẹp, trong khi chữ Quốc ngữ giờ cũng đang được nhiều người mang viết thảo, nom chẳng còn ra làm sao. Chữ Quốc ngữ thuộc dòng la tinh, càng rõ ràng rành mạch, càng đơn giản càng tốt, đem viết thảo hóa rối loạn, bảo đẹp thì cũng đâu có đẹp. Đã dám đem chữ E đặt lên trước chữ A cho trẻ con học thì xem ra chẳng còn biết nể sợ gì ai nữa. Thôi thì tùy, tìm tòi vốn là quyền của thiên hạ, còn có thấy thuận mắt hay không cũng lại là quyền của thiên hạ.
Cụ Lang thấy ông Kim Lân mò đến tìm mình thì lấy làm mừng lắm, cụ vui ra mặt. Vậy là ông muốn treo chữ năm nay chứ gì, được thôi, tôi sẽ chọn một bài thơ cổ viết tặng ông. Đêm nay tợp hụm rượu là tôi đưa bút liền, phép cầm bút là cầm một mạch, gọi là nhất khí. Chữ thảo đâu có phải là tùy tiện viết sao nên vậy, qui ra cũng chỉ có dăm bảy cách viết chính mà thôi. Mỗi lối một vẻ, duyên dáng ý tứ là cách "Khuê nữ bộ xuân" mãnh liệt bất chấp là cách "Thiếu niên cự khách", là thằng ranh nó cứ phang tới tấp vào cánh già chúng ta. Rung rinh lay động như con giun cựa mình khi xuân tới, như con rắn lột xác lúc thu về là cách "Xuân dận thu xà" còn như nhìn vào thấy đám chữ ùn ùn mà vẫn giữ được hàng lối như đằng xa có đám phu kiệu tiến trên đường thì được gọi là cách "kiệu phu tranh đạo". Nhưng năm nay ông đã đến gần tuổi chín mươi, vậy nên tôi phải chọn cách "liên miên thảo" để viết tặng ông. Liên miên thảo là thảo của người già đến cõi, đã thành vô chiêu, có quyền vượt qua mọi lề thói thông thường, là say đấy mà cũng tỉnh đấy.
Ông Kim Lân nhũn nhặn, thôi thì tùy ý ông, chỉ mong ông cứ vung bút cho tít mù vào nom mới sướng. Cụ Lang nghe bạn nói thì cười tít cả mắt, đứng dậy với chai rượu trên tủ, lựa hai chiếc chén hạt mít, men sứ trắng ngà màu hạt mít luộc, thành chén dựng gọi là chén đông ẩm. Cụ thong thả rót từng giọt rượu vào chén, mùi rượu bay lên thoang thoảng như mùa thu vẫn đang còn lưu luyến quanh đây. Những người sành như họ hiểu đây là mùi rượu Hoàng tửu.
Thầm hẹn mỗi bận thu sắp qua xuân sắp đến lại về cùng ngồi với nhau để uống rượu thưởng hoa. Những đài cúc vàng được bứng lên chậu gốm, còn vò rượu nếp cái thì đã được ủ hương cúc từ những mùa năm trước, thế gọi là thu ẩm hoàng hoa tửu.
Tuỳ bút của nhà văn Đỗ Chu
Ý kiến ()