Họ từng cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Họ là nhà giáo đào tạo bao lớp học sinh trưởng thành... Tôi đã khá vất vả để thuyết phục họ đồng ý cho tôi được viết về họ. Lý do đưa ra thật đơn giản: “Là một người lính, người giáo viên, người cha, người mẹ bình thường như bao người khác có gì đâu để viết...”. Nhưng chính những con người “bình thường” ấy đã và đang cống hiến sức lực, trí tuệ và cả một phần xương máu của mình cho quê hương, đất nước, cho sự nghiệp trồng người.
Những người lính một thời hoa lửa…
Đó là 3 người con của quê hương Tiên Du: Thầy giáo-thương binh Nguyễn Công Duyệt (Cựu giáo viên lịch sử trường THPT Tiên Du I), thầy Nguyễn Văn Trường (Tổ trưởng tổ ngữ văn trường THPT Tiên Du I), thầy Trần Minh Thanh (Chủ tịch Công đoàn, Tổ trưởng tổ xã hội trường THPT Nguyễn Đăng Đạo, Tiên Du). Họ lớn lên trong thời cả đất nước tiến quân vào cuộc trường chinh vĩ đại chống Mỹ cứu nước. Theo tiếng gọi thiêng liêng của sông núi, những chàng trai ấy đã “gác bút nghiên lên đường chiến đấu”.
Anh cán bộ trẻ của Ban kiến thiết cơ bản tỉnh Lạng Sơn- Nguyễn Công Duyệt nhập ngũ biên chế về Trung đội trinh sát của Tiểu đoàn 63, Sư đoàn 94B. Địa bàn hoạt động chủ yếu của đơn vị là vùng núi rừng Tây Nguyên. Luồn rừng mà đánh địch đối diện với muôn vàn khó khăn, gian khổ của mưa rừng, sốt rét, thiếu ăn, mất ngủ... Thầy Duyệt bồi hồi nhớ lại: “ Ra đi chiến đấu là không hẹn ngày về, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc nên khi gửi lại chân trái ở chiến trường tôi rất bình thản. Còn một chân cũng may mắn hơn nhiều đồng chí, đồng đội… những người đã vĩnh viễn nằm lại lòng đất mẹ! Mỗi năm gần đến ngày 27-7 tôi đều thao thức về hình ảnh đồng đội đã hy sinh…”.
Còn sinh viên năm thứ nhất khoa ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I- Nguyễn Văn Trường khoác áo lính lên đường tòng quân về Tiểu đoàn 63, Trung đoàn 236 binh chủng tên lửa. Đơn vị có rất nhiều đồng đội là sinh viên nhập ngũ. Kỷ niệm hiện về là: “Những lần cùng đơn vị lập công như trận bắn rơi máy bay F4 tại cầu Hàm Rồng năm 1972... Những lính trẻ- sinh viên mang tâm hồn mơ mộng của thời cắp sách thách thức gian khó, hiểm nguy và khốc liệt của chiến tranh. Những khoảnh khắc tạm ngưng tiếng súng hay giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi, họ lại lật giở những trang sách ôn luyện kiến thức chuyên ngành hay lạc quan, vui vẻ với đàn ca, sáo nhị... Trong lòng những người lính trẻ- sinh viên vừa mộng chiến công về ngày toàn thắng, vừa mơ ngày hoà bình trở lại giảng đường đại học.”.
Với Trần Minh Thanh- chàng trai vừa tròn 18 tuổi, đang là học sinh chuẩn bị thi tốt nghiệp cấp 3 lên đường nhập ngũ lại mang theo nét tinh nghịch, chút thơ ngây và những ước mơ tuổi hồng thời trung học. Biên chế về Tiểu đoàn 81, Trung đoàn 238, Sư đoàn 363 binh chủng tên lửa. Thầy Thanh tự hào nhớ lại: “Trong đơn vị, tôi thuộc hàng em út nên được thế hệ đàn anh dày dạn kinh nghiệm trận mạc, hết lòng giúp đỡ, dạy bảo.”. Để rồi họ cùng trưởng thành, kề vai, sát cánh đi qua cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc với nhiều chiến công vang dội (chàng lính trẻ Trần Minh Thanh là trắc thủ cự ly trong kíp chiến đấu 4 người bắn rơi chiếc B52 cuối cùng trên bầu trời miền Bắc vào ngày 26- 12-1972).
…Đến người thày trên lớp và trong gia đình
Họ là những người chiến thắng trong cuộc chiến, ngẩng cao đầu về với thời bình cùng một duyên với ngành sư phạm. Nguyễn Văn Trường về học tiếp đại học năm thứ 2. Nguyễn Công Duyệt, Trần Minh Thanh bắt đầu vào đại học chuyên ngành lịch sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Tốt nghiệp ra trường, mỗi người về công tác một nơi nhưng trước những khó khăn chung của đất nước, họ đã cố gắng vượt lên, nỗ lực trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ dốc sức đào tạo những thế hệ học sinh- chủ nhân tương lai của đất nước. Các thầy cũng không thể nhớ nổi mình đã đào tạo bao nhiêu thế hệ học sinh. Nhưng có một điều chắc chắn rằng qua những bài giảng và cái tâm với nghề của các thầy mà rất nhiều học sinh đạt giải cao trong các cuộc thi học sinh giỏi, đỗ đại học, cao đẳng học hành thành tài đóng góp cho đất nước. Và có cả những học trò không theo tiếp con đường học hành mà về với ruộng vườn quê hương hay làm một nghề nào đó chắc cũng còn nhớ một phần nhân cách của mình là nhờ ảnh hưởng từ các thầy mà nên.
Thật tình cờ, tôi được gặp một học trò cũ của thầy Nguyễn Công Duyệt. Đó là thầy Dương Văn Luật giáo viên trường THPT Lý Thường Kiệt, thành phố Bắc Ninh. Thầy Luật tâm sự: “Ra trường đã gần 30 năm, nhưng năm nào chúng tôi cũng về thăm thầy trong tâm trạng háo hức con trẻ của một thời cắp sách mong được thầy gọi tên, hỏi han, dặn dò... Những thành công của chúng tôi hôm nay mang nhiều dấu ấn của thầy...”. Có lẽ đó cũng là suy nghĩ của chúng ta- những người từng một thời đi học hướng về các thầy, cô đáng kính của mình. Và cũng là lời tri ân, chút lòng thơm thảo của lớp lớp thế hệ học trò đối với các thầy cô giáo.
Không chỉ đi cùng những năm tháng hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, rồi vững vàng trên bục giảng. Các thầy còn thành công trong nuôi dạy con ngoan, trưởng thành, đỗ đạt. Họ đều trải qua thời kỳ khó khăn chung của những nhà giáo thời bao cấp. Họ từng làm thêm đủ nghề để kiếm sống và nuôi con ăn học. Thầy Duyệt có 2 con, trong đó con trai lớn là thạc sỹ, con gái thứ 2 có 2 bằng đại học và cả 2 đang công tác trong ngành ngân hàng. Thầy Thanh có 3 con đều đã tốt nghiệp đại học đi làm (2 con theo ngành sư phạm, 1 theo ngành văn hoá). Thầy Trường có 3 con: 2 con đã tốt nghiệp đại học công tác trong ngành kiểm sát và tư pháp, con thứ 3 đang học Đại học Bách khoa. Trong hành trình đưa các con đến thành đạt, các thầy chính là tấm gương, là động lực thôi thúc các con của mình phấn đấu. Thầy Trường đã sẻ chia những tâm sự về trách nhiệm thiêng liêng của cha mẹ: “Làm cha, làm mẹ ai cũng xác định cho con cho cả cuộc đời, nhưng không phải cái gì cũng cho con. Hãy cho con tình thương đi đôi với sự nghiêm khắc. Bố mẹ phải luôn cố gắng trở thành tấm gương cho con học tập. Giáo dục con tức là giáo dục con người cần phải kiên trì cả một quá trình, không thể nóng vội trong một sớm, một chiều mà đòi hỏi thành công. Giáo dục con từ thuở còn thơ, bắt đầu từ việc nhỏ để sớm hình thành tính tự giác, tự lập. Hãy động viên lúc con gặp khó khăn, hãy khích lệ lúc con nỗ lực phấn đấu đạt thành tích. Và theo con theo cả cuộc đời lúc còn thơ, khi đi học, đi làm và xây dựng gia đình.”.
… Cho những hạnh phúc giản dị.
3 thầy giáo- 3 con người bình thường, giản dị nhưng đã làm tròn 3 trách nhiệm lớn của một đời người: với Tổ quốc thì cầm súng chiến đấu bảo vệ; với xã hội thì tận tâm với nghề giáo và với gia đình thì nuôi dạy con cái trưởng thành, kinh tế vững vàng. Cống hiến để hạnh phúc với những niềm vui, niềm tự hào giản dị như tâm sự của thầy Duyệt: “Chúng tôi đã đóng góp một phần nhỏ bé cho chiến thắng giặc Mỹ thống nhất đất nước. Chúng tôi vui với nghề giáo khi được nhìn những học trò của mình lớp lớp thành đạt thì niềm vui như nhân lên bất tận. Những ngày 20-11, ngày tết, nhiều học trò lại tìm về làm niềm vui dâng đầy như không bao giờ hết…”. Có lẽ đó cũng là niềm vui chung của tất cả những thầy cô giáo, những người chở đò, chèo lái con thuyền tri thức, nâng cánh ước mơ cho những chủ nhân tương lai của đất nước.
Đất nước ta đã trải qua những cuộc chiến tranh vệ quốc nên chắc chắn rằng ta có thể bắt gặp rất nhiều người như thầy Duyệt, thầy Trường, thầy Thanh ở đâu đó trên mọi vùng miền Tổ quốc. Và cũng chắc chắn rằng còn rất nhiều con người khác nữa, có thể họ không có vinh dự được cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc nhưng họ là những nhà giáo tràn đầy nhiệt huyết với nghề. Họ đã và đang phấn đấu đóng góp cho sự nghiệp vinh quang- sự nghiệp trồng người chỉ đơn giản vì cái tâm trong sáng với nghề mà không hề đòi hỏi được vinh danh. Lịch sử đã, đang và sẽ ghi nhận, vinh danh những “Nhà giáo bình thường” như thế. Câu nói lúc sinh thời của Bác Hồ kính yêu là minh chứng hùng hồn cho điều đó: “Người thầy giáo tốt- thầy giáo xứng đáng là thầy giáo- là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang”.
(HCM toàn tập-NXBCTQG-HN-2000 Tập 11 trang 333).
Bài, ảnh: Bảo Anh
Ý kiến ()