Tôi về lại Tây Bắc dự kỷ niệm 55 năm thành lập trường Ðại học Tây Bắc giữa lúc Ðảng bộ Sơn La và Ðiện Biên đang tổ chức Ðại hội Ðảng bộ tỉnh khóa 2015-2020. Xe chạy êm êm trên con đường số 6 mới sửa như chạy giữa vùng huyền thoại.
Nghe trong cái se lạnh buổi sáng tháng mười vị ngòn ngọt của cam Cao Phong đầu vụ. Quả cam này đã biết đi xứ người để trở thành thương hiệu Việt. Cả một vùng rực rỡ cờ hoa trong sắc xanh bạt ngàn của những cánh rừng cổ thụ. Mùa này, Tây Bắc không phải mùa hoa ban trắng, hoa mận vàng, hoa gạo đỏ. Thay vào đó giữa mênh mông màu xanh của vùng chè cao nguyên Châu Mộc là thấp thoáng sắc màu rực rỡ tím hồng của vườn hoa tam giác mạch do một chàng trai có tên là Thủy lấy giống từ Hà Giang về trồng. Thử nghiệm táo bạo này giúp cho tháng mười Tây Bắc đỡ nhớ mùa ban trắng, hứa hẹn một ngày không xa, Tây Bắc không chỉ có lễ hội hoa ban, mà sẽ có thêm lễ hội hoa tam giác mạch, cái lễ hội mà Hà Giang tổ chức lần đầu vào ngày 13 tháng 11 trên cao nguyên đá Ðồng Văn…
Tây Bắc đổi thay nhiều quá. Những phiên chợ dập dìu áo chàm khăn piêu trên phố núi bên những siêu thị. Giữa thành phố Sơn La sừng sững trường Ðại học Tây Bắc. Ðại học Tây Bắc như một thủy điện thứ hai đem đến ánh sáng cho cả vùng núi rừng Tây Bắc, thứ ánh sáng mà thủy điện Sơn La không có được…
Dọc theo đường quốc lộ 6, chúng tôi miên man qua Tuần Giáo đến mảnh đất Ðiện Biên lịch sử. Hai bên đường từ Tuần Giáo đến Ðiện Biên là hàng cây hoa ban mới được trồng theo ý tưởng của một dự án. Tôi thầm cảm ơn người đã nghĩ ra dự án này. Hoa ban là loài hoa linh hồn của đồng bào Tây Bắc. Tất cả tín ngưỡng, vẻ đẹp văn hóa của đồng bào dân tộc Tây Bắc kết tinh ở hoa ban. Hoa ban lung linh trắng rừng núi Tây Bắc. Hoa ban ẩn trong kiến trúc nhà sàn. Hoa ban nở hàng cúc bạc trên ngực áo các cô gái Thái… để rồi trong tâm tưởng và trong nghệ thuật, có điệu múa hoa ban, lời thề hoa ban, nỗi nhớ hoa ban. Lễ hội hoa ban có lẽ vì thế mà có. Và giờ đây, dọc con đường lịch sử có tượng đài kéo pháo, hoa ban sẽ nở. Lịch sử sẽ thêm phần lãng mạn. Hoa ban không chỉ nở trên con đường kéo pháo lịch sử Ðiện Biên Phủ. Hoa ban còn về và sẽ nở trên Vũng Chùa Ðảo Yến Quảng Bình, bên mộ Ðại tướng Võ Nguyên Giáp để trở thành thứ hoa bầu bạn tri kỷ, thứ hoa thiêng…
Dưới chân tượng đài chiến sỹ Ðiện Biên là Ðại lộ Võ Nguyên Giáp. Ðây là Ðại lộ lớn nhất, nằm ở trung tâm thành phố Ðiện Biên mới được đặt tên như một sự tri ân của lịch sử và nhân dân Ðiện Biên với vị tướng huyền thoại. Không nơi nào trên mảnh đất Ðiện Biên lịch sử này lại không có hình bóng của Ðại tướng, gần gũi và thân thương, oai phong mà bình dị với nụ cười hiền như tạc vào lịch sử, tâm can và đất trời Tây Bắc.
Buổi sáng se lạnh của tháng mười trên con đường về lại Tây Bắc, tôi gặp Nhà giáo Nhân dân, PGS, TS Ðặng Quang Việt, người cùng lên Tây Bắc công tác một đợt với tôi. Ông là Hiệu trưởng đầu tiên của Ðại học Tây Bắc, là người có công đầu trong việc giúp cho Tây Bắc có một trường Ðại học. Tôi cảm động với câu nói giản dị của ông: Mình gần một đời gắn bó với Tây Bắc, bây giờ về Bộ, làm được gì tốt cho Tây Bắc vẫn sẽ cố gắng mà làm…
34 năm trước, năm 1981, tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường Ðại học Sư phạm Hà Nội, tôi được điều lên công tác tại trường Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc (Tiền thân là trường Sư phạm cấp 2 khu tự trị Thái Mèo). Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc là tiền thân của trường Ðại học Tây Bắc hiện nay. Thời chúng tôi, sinh viên tốt nghiệp ra trường được nhà nước điều động công tác, không phải tự đi xin việc như bây giờ, cũng không phải trải qua thêm một kỳ thi tuyển dụng nữa. Không có khái niệm đi xin việc, càng không có khái niệm chạy việc. Dường như đó là điều tốt đẹp của thời bao cấp. Lúc ấy, trường Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc mới được nâng cấp từ trường Sư phạm 10 3, địa điểm đóng ở Thuận Châu.
Chúng tôi là thế hệ gần như đầu tiên tốt nghiệp Ðại học Sư phạm đủ 4 năm sau ngày giải phóng. Trước 1975, hàng vạn sinh viên phải gác bút nghiên, tạm biệt giảng đường để vào chiến trường. Nhiều người trong số họ đã hy sinh. Thế hệ chúng tôi vì thế như mắc nợ sinh viên lớp trước. Sau giải phóng miền Nam, ngành nào, nơi nào cũng thiếu cán bộ. Có 2 miền thiếu trầm trọng nhất là miền Nam và miền núi. Bởi vậy, sinh viên như chúng tôi, ra trường, nếu không vào miền Nam thì lên miền núi.
Là người Bắc Ninh-Hà Bắc mà lên Sơn La là hơi ngược đường (Sơn La rất đông người Thái Bình, Nam Ðịnh lên công tác, đến mức sau này có câu ca: Thái đen, Thái trắng, Thái Bình. Ba Thái đồng tình xây dựng Sơn La). Trước khi đến với Sơn La, tôi chỉ biết Tây Bắc qua thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, qua chuyện Tây Bắc của Tô Hoài, nghĩa là biết một Tây Bắc thơ mộng nhưng xa lắc xa lơ và rừng thiêng nước độc…
Trong hành trang của tuổi 20 lúc bấy giờ, ngoài cái vốn liếng học được trong trường đại học, ngoài cái háo hức có phần ngờ nghệch của tuổi đôi mươi, ngoài ánh mắt lo toan của người mẹ già và rất nhiều lời dặn dò về cách ứng xử với rừng thiêng nước độc, tất cả chúng tôi đều cầm trên tay mảnh giấy: ưu tiên công tác miền núi.
Ngày ấy, đi từ Bắc Ninh đến trường Cao đẳng sư phạm Tây Bắc mất đúng 3 ngày (nếu không sạt lở tắc đường). Tôi không thể quên những cung đường gập ghềnh trơn trượt mà mỗi lần xe gặp ổ gà, đầu va đến tận trần. Ðến đây tôi mới hiểu thế nào là khúc cua tay áo. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in cái cảm giác háo hức rờn rợn của lần đầu đến với miền Tây Bắc.
Trường Cao đẳng Tây Bắc lúc ấy đặt trên quả đồi của huyện Thuận Châu, cách phố huyện gần cây số. Những dấu tích của một trung tâm khu tự trị Thái Mèo xưa còn sót lại ở những nền móng. Cơ sở vật chất của trường chủ yếu là nhà tranh tre nứa lá. Duy nhất chỉ có nhà làm việc của hiệu bộ và vài dãy nhà lớp học là được xây gạch. Cả một khu tập thể giáo viên có tới 8 dãy nhà lợp lá tường trát đất trộn rơm.
Năm 1980 và 1981 là hai năm có số giáo viên lên Cao đẳng Tây Bắc đông nhất. Ðội ngũ này đem đến sự trẻ trung cho cả vùng đất Thuận Châu khi ấy và đã làm thay đổi toàn bộ bộ mặt của trường đến mức có người ngỡ ngàng hoảng hốt, sự ngỡ ngàng hoảng hốt trước cái mới và sức trẻ. Phải công bằng mà nói rằng, thế hệ lên trường những năm 80, 81 như là linh hồn của Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc xưa và Ðại học Tây Bắc bây giờ. Chính những thế hệ thày cô ấy đã đào tạo nên lớp cán bộ giảng viên, giáo viên Tây Bắc hiện nay.
Hội trường 55 năm đông vui quá. Có hàng trăm thày cô giáo cũ các thế hệ và hàng ngàn học sinh cũ trở về. Tíu tít. Rưng rưng. Tôi nghèn nghẹn khi gặp lại vợ chồng anh Nguyễn Văn Bao, hiệu trưởng Ðại học Tây Bắc, cùng các bạn Tiến Dũng, Công Tho, Hoàng Yến, Văn Hạnh, Nguyễn Quyền…, những cốt cán của Ðại học Tây Bắc hiện nay. Tôi bâng khuâng gặp lại những trò cũ của một thời không rành mạch. Những kỷ niệm gần 10 năm gắn bó với Tây Bắc cứ dồn dập ùa về. Tây Bắc xưa gian khổ. Tây Bắc xưa đùm bọc. Tây Bắc xưa nghĩa tình…
Lớp đầu tiên tôi chủ nhiệm trong cuộc đời thày giáo là lớp 4 3, phần lớn là cán bộ đi học quê tận những nơi heo hút cuối đất cùng trời của Sơn La, Lai Châu, những Quỳnh Nhai, Sông Mã, Bắc Yên, Phù Yên, Mường Ảng, Sìn Hồ, Phong Thổ, Mường Tè… có người nói tiếng kinh còn chưa sõi. Lớp học trò ấy bây giờ đã nghỉ hưu hết lượt. Tôi nhớ những lần đưa sinh viên đi thực tập, hàng nửa ngày leo bộ mới đến điểm trường. Tôi đã từng đến dốc Tả Sùa của Bắc Yên, đến Mường Ảng của Ðiện Biên để thấm thía phần nào cuộc sống ba cùng với đồng bào Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài và để dạy cho tử tế tập truyện Tây Bắc của ông.
Không thể kể hết những kỷ niệm của gần 10 năm gắn bó với Tây Bắc. Anh Văn Giá-Người lên Tây Bắc trước tôi một năm, đã nói hộ chúng tôi rằng: Tây Bắc, nơi ấy đã rèn luyện chúng tôi. Quả thật bây giờ gặp lại những người đã lên Tây Bắc công tác cùng thời chúng tôi, nhiều người đã rất trưởng thành, là lãnh đạo cấp bộ, cấp tỉnh, một số người là giáo sư tiến sỹ. Với bản thân tôi, dù đã trải qua nhiều môi trường công tác, dù đã nhiều thế hệ học trò đi qua cuộc đời mình, nhưng sâu thẳm trong trái tim mình, Tây Bắc mãi là duyên nợ.
Có được như ngày hôm nay, với tôi, cội nguồn là những năm tháng nhọc nhằn Tây Bắc…
Mấy mươi năm về lại với Rừng
Bạn bè cũ, thảo thơm chén rượu
Và em nữa, vẹn nguyên như thể
Ðể một đời chếnh choáng Thuận Châu…
Tây Bắc, tháng 10-2015
Ý kiến ()