Với bề dày của lịch sử, chiều sâu của nghệ thuật và mang bản sắc dân tộc rõ rệt ca trù của Việt Nam đã được UNESCO ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp vào tháng 10 năm 2009. Sau đúng ba năm sự kiện trên chúng tôi cùng nhà nghiên cứu ca trù Hoàng Sơn về Thanh Khương- Thuận Thành (Vùng Dâu) nơi khởi nguồn Ca trù.
Người làm báo: Về xã Thanh Khương (Thuận Thành) có cơ duyên gặp và trò chuyện với các bậc cao niên, am hiểu lịch sử vùng đất và các đồng chí lãnh đạo địa phương. Bí thư Đảng ủy xã Nguyễn Văn Thích được sinh ra trong một dòng họ có truyền thống hát ca trù, anh cũng là người am hiểu và mê say ca trù. Cô của anh bà Nguyễn Thị Thiệp nay đã 83 tuổi, là Nghệ nhân duy nhất của ca trù Vùng Dâu. Từ những câu chuyện của những nhân chứng sống, và khi đọc lại kho tư liệu cổ về ca trù vùng Dâu, người làm báo không thể không trở lại Thanh Khương …
Theo thư tịch cổ, xã Thanh Khương huyện Thuận Thành nằm ở trung tâm vùng đất Dâu hay còn gọi là thành cổ Luy Lâu là nơi khởi nguồn Ca trù. Miền Luy Lâu cổ tích của chuyện tình Man Nương, của lễ hội Tứ Pháp huyền diệu, kỳ vĩ còn là miền thi ca vượng địa. Bao đời nay, sau lũy tre làng Vùng Dâu xứ Kinh Bắc nổi danh có nhiều thế hệ nông dân, nghệ sỹ của đồng quê .
Theo truyền thuyết, ngay từ thời Hán dân làng đã có nghề ca hát phục vụ quan lại cai trị đóng ở trong thành. Năm 40 Hai Bà Trưng kéo quân về hạ thành, ca nương Biểu Phật Nương người Thanh Tương đã làm nội ứng mở cổng thành cho quân Hai Bà kéo vào như thác lũ khiến thái thú Tô Định phải hoảng hồn xé rào lên thuyền con chạy trốn. Biểu Phật Nương trở thành nữ tướng tuỳ tùng của Hai Bà. Sau khi khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, dân Thanh Tương đã lập đền thờ tưởng nhớ nữ tướng Biểu Phật Nương.
Vào thời Lê người có công truyền dạy và hồi sinh làng nghề ca trù Thanh Tương là vợ chồng ca nương Nguyễn Thị Hoa, thuộc họ Nguyễn Trọng của làng. Vợ chồng ca nương Nguyễn Thị Hoa được tôn là tổ nghề, được lập tượng thờ tại dòng họ. Hai pho tượng gỗ sơn son thếp vàng vẫn được thờ tự tại ban thờ gia tiên dòng họ Ông Nguyễn Trọng Năng. Cho dù ca Trù Vùng Dâu đã mai một đến cả nửa thế kỷ…

Nghệ nhân Ca trù Nguyễn Thị Thiệp và ca nương Thanh Tân, truyền nhân của Bà.
Nghệ nhân ca trù Nguyễn Thị Thiệp: Hồi trẻ tôi theo gia đình đi phục vụ hát cửa đình, hát quán, hát khao vọng khắp vùng. Sau đó theo vợ chồng anh chị là tay đàn Nguyễn Hồng Thái và ca nương Nguyễn Thị Vóc ra Khâm Thiên, Hà Nội mở nhà tơ. Vào lúc hoàng kim của nghệ thuật Ca trù, cả làng tôi đi hát kiếm tiền: hát phục vụ các quan huyện, chánh tổng, hát đình, hát hội, hát khao, hát mừng thọ, mừng đám cưới… Người trong làng đi hát khắp nơi, nhà nào ở làng Thanh Tương cũng có đủ bộ ba: đào nương, kép đàn và tay trống. Những gia đình có “bộ ba cùng xinh”, nghĩa là người đàn hay, người hát giỏi, tay trống giòn, khi phối hợp nhịp nhàng và lại có ngoại hình ưa nhìn thì thường xuyên được mời đi hát ở Khâm Thiên. Riêng làng Thanh Tương có dăm chục ca nương và hàng trăm tay đàn tay trống kiếm ăn ở phố cô đầu này.
Nhà nghiên cứu Hoàng Sơn: Ca trù của ta tuy đã được thế giới quan tâm nhưng khôi phục còn khó lắm. Theo thống kê, đến giữa năm 2011 trên cả nước có 67 câu lạc bộ với khoảng hơn chín trăm người bao gồm đào nương kép đàn và người đánh trống chầu, ở 14 tỉnh, thành phố có hoạt động thường xuyên và có kế hoạch luyện tập truyền nghề ca trù. Tuy nhiên, số nghệ nhân có thể hát được từ 10 làn điệu trở lên là rất hiếm. Trong đó như Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp đây là ví vụ, là báu vật sống của ca trù rồi!
Ông Nguyễn Duy Khoa, trưởng ban Văn hóa xã Thanh Khương: Một thời chưa lâu, ca nương Nguyễn Thị Vóc, Nguyễn Thị Thiệp và tay đàn Nguyễn Văn Đức làm nên bộ ba độc nhất vô nhị, nổi danh của Ca Trù vùng Dâu. Nghĩa là người đàn hay, người hát giỏi, tay trống giòn, họ cùng mang sự sang trọng, lịch lãm trong từng câu hát. Vậy mà chưa kịp truyền hết ngón tay đàn Nguyễn Văn Đức và ca nương Nguyễn Thị Vóc đã ra đi. Ca nương Nguyễn Thị Thiệp vẫn say hát nhưng không có tay đàn tay trống để hát. Mỗi lần đi biểu diễn ở đâu, bà phải sang làng Thanh Hoài đi cùng với tay đàn Nguyễn Trọng Lộ và tay trống Nguyễn Trọng Thỉnh, là những người vẫn giữ được lề lối để đủ hợp thành bộ đi hát.
Người làm báo: Nghệ nhân Ca trù Nguyễn Thị Thiệp đang sống tại thôn Thanh Tương, trong ngôi nhà của trưởng nam, anh Nguyễn Lộ. Một ngày đẹp trời, khách đến chơi nhà được nghe bà hát . Bà Thiệp vẫn có thể hát đủ các thứ giọng: Tỳ bà, cung bắc, gửi thư, xẩm, hát miễu, nói, ả phiền, hát lót… và nhớ rất rõ từng điệu múa nhạc. Thật la lùng, người Nghệ nhân đã 83 tuổi mà lối hát, giọng ca với cách ém hơi, nhả chữ, tròn vành rõ chữ, giữ tròn âm sắc, đủ cung bậc, giọng điệu. Bà hát, hơi trong theo cách “ậm ự” làm cho lời ca những đoạn buồn, nức nở xoáy lòng người nghe khiến người nghe thổn thức khôn nguôi.
Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp: Thời tôi còn con gái, mỗi lần làng mở hội hát Ca trù, các cô đầu phải ra múa và tế thần xong mới được hát. Ngày ấy hát phải đúng lề lối, khuôn khổ nghi lễ chứ không dễ dãi như hát Ca trù bây giờ, nghi thức không có, người hát không rõ lời. Tiếng đàn, tiếng trống, nhịp phách mông lung lắm. Làng Thanh Tương quê tôi xưa Ca trù vang danh là vậy mà nay người biết, đàn hát ca trù hiếm lắm. Mấy ai hiểu ca trù đâu. (Bà nói mà giọng lặng đi, nghe trầm buồn).
Nhà nghiên cứu Hoàng Sơn: Hát ca trù là nghệ thuật hát thơ, có một hệ bài bản phong phú quy định cho từng lối hát thờ, hát chơi và hát thi. Lời lẽ, ca từ của ca trù uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa, giàu chất thơ, mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Ca trù có đủ các thể loại từ trữ tình lãng mạn đến sử thi anh hùng, triết lý giáo huấn… đã thu hút sự tham gia sáng tác, thể nghiệm tài năng của nhiều văn sĩ và trí thức. Phải là người hiểu thấu nội dung và nghệ thuật ngôn từ trong các bài ca cùng sự biểu hiện tinh tế của các ca nữ trong sự phối hợp nhịp nhàng với ngón đàn, khổ phách... mới thấy hết vẻ đẹp và giá trị của loại hình nghệ thuật này. Từ Ca trù, một thể thơ độc đáo ra đời và trở nên có vị trí sáng giá trong dòng văn học chữ Nôm của dân tộc. Đó là thể thơ hát nói, được ưa chuộng qua nhiều thế kỷ. Ngoài ra, đàn Đáy và Phách đã trở thành những nhạc khí đặc trưng của ca trù, góp phần đưa ca trù trở nên một thể loại thanh nhạc kinh điển của Việt Nam.
Bí thư Đảng ủy xã Thanh Khương Nguyễn Văn Thích: Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp là người luôn dốc lòng góp phần bảo tồn ca trù, nét đẹp văn hóa quê hương. Đã hàng chục năm nay, dù tuổi già, sức yếu bà vẫn đi khắp nơi tận tâm dạy hát và tìm người chân truyền. Được cụ Thiệp truyền dạy, các thế hệ ca nương trẻ trên mảnh đất Bắc Ninh ngày một đông hơn. Có đến cả trăm người từ các cháu thiếu nhi đến cho đến những cụ già dâu tóc bạc phơ ở Câu lạc bộ Ca trù Tiểu Than (Vạn Ninh, Gia Bình) rồi ở các Câu lạc bộ văn nghệ ở Bắc Giang, Hưng Yên được Nghệ nhân Thiệp truyền dạy theo lối “miệng truyền miệng” “tay truyền tay”. Trong số đó có những học trò của nghệ nhân đã giành những giải vàng, bạc trong Liên hoan ca trù toàn quốc. Ví như cô Trần Thị Kim Tuyến ở làng Khám, từng đoạt Huy chương Vàng. Đặc biệt, là cháu Nguyễn Thanh Tân ở làng Văn Quan (xã Trí Quả) có năng khiếu hát chèo. Cháu được Nghệ nhân truyền nghề, do có năng khiếu và đam mê, cháu trở thành ca nương hiếm hoi trong vùng. Nghệ nhân Thiệp vô cùng vui khi tìm được người chân truyền. Năm 2012 này cháu đã thi đỗ Khoa kịch hát dân tộc Đại học Sân khấu Điện ảnh với số điểm cao.
Ca nương Thanh Tân: Thi đỗ vào trường, cháu được xếp vào lớp diễn viên chèo. Nhà trường không có lớp ca trù. Không biết bao giờ cháu mới được trở lại với ca trù ?!.Cụ Thiệp luôn nói với cháu bây giờ tìm được người yêu thích và biết đàn, hát Ca trù rất khó. Người có lòng đam mê, được học nắm được lề lối hát nhưng chất giọng kém, cụ chưa thật an tâm. Bây giờ, ở nước mình cháu thấy ngay cả người biết nghe Ca trù cũng không nhiều !
Nhà nghiên cứu Hoàng Sơn: Chưa lâu, nhiều tờ báo mạng thông báo một tin thật đáng suy ngẫm: Tại Đại Học Paris Ouest- Nanterre (Pháp), có một thiếu nữ người pháp, Alienor đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về ca trù, được hội đồng giám khảo đánh giá với thứ hạng “Très honorable avec félicitations du Jury” - thứ hạng cao nhất. Giáo sư Trần Văn Hải là chuyên gia về âm nhạc Á Châu, là trưởng nam của GS TS Trần Văn Khê, ông làm giám khảo trong buổi bảo vệ Luận án tiến sỹ âm nhạc của Cô Aliénor (ngày 5-1-2012) ông phát biểu: Thật ngạc nhiên khi Aliénor là người biết hát, gõ phách, gảy đàn đáy và cầm chầu ca trù.
Trong suốt chín năm bền bỉ nghiên cứu ca trù, từ năm 2003 đến 2011, đã rất nhiều lần cô Aliénor đến Việt Nam, vào thành phố Hồ Chí Minh gặp nhà nho học uyên thâm Nguyễn Quảng Tuân. Người thày này đã nhiều năm liền dồn sức truyền dạy cho Aliénor phần văn chương và lịch sử ca trù.
Người làm báo: Cần nói thêm rằng, ông Nguyễn Quảng Tuân là một trong vài người hiếm hoi còn lại của Việt Nam có thể sáng tác thể thơ Hát Nói của Ca Trù. Nghe tin vui ông đã gửi “Mừng cô Tiến sĩ “tặng Aliénor: Luận án kia nghĩ lại thực công phu. Suốt chín năm (1) cố nghiên cứu Ca trù, văn bằng ấy đền bù bao xứng đáng. Ngư dược long môn tam cấp lãng, Điểu minh hoa báo nhất chi xuân (2). Sang Việt Nam kể sau trước bốn lần, Đi khắp chốn xa gần tìm mọi cách. Học đàn - hát, học cầm chầu, học gõ phách (3) Cố sưu tầm các sách chép thơ văn. Không hề quản ngại khó khăn, Cố công tìm hiểu mọi phần tinh vi. Hỏi xem: Dễ mấy ai bì ?
Thiết nghĩ, với bề dày của lịch sử, chiều sâu của nghệ thuật và mang bản sắc dân tộc rõ rệt ca trù đã khẳng định được vị trí quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới. Tuy nhiên, để bảo tồn nghệ thuật Ca trù cho dù tại chính cái nôi, môi trường sinh ra nó còn gian nan, tốn nhiều tâm sức lắm…
Ý kiến ()