Chùa Đồng Nhân tọa lạc trên một quả đồi, có diện tích ban đầu là hơn 10.800 m2 (nay còn 4.541,9 m2), gần trường THPT Hàn Thuyên, thuộc phường Đại Phúc, TP Bắc Ninh.
Chùa được khởi công xây dựng vào năm Tự Đức thứ 28 (1875) và hoàn thành năm Bính Tuất niên hiệu Tự Đức thứ 29 (1876). So với một số ngôi chùa nổi tiếng ở Bắc Ninh (như chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp,...), chùa Đồng Nhân không phải là ngôi chùa lớn, không có lịch sử lâu đời, nhưng lại có một số đặc điểm mà nhiều ngôi chùa không có được. Bài viết này, căn cứ vào kết quả khảo sát thực tế, chúng tôi xin nêu một số đặc điểm của chùa Đồng Nhân nhằm giúp bạn đọc thấy được nét độc đáo ở ngôi chùa này.
1. Chùa Đồng Nhân được xây dựng theo sắc chỉ của vua Tự Đức để làm nơi thờ cúng cho những binh sĩ trận vong
Theo một số tư liệu của chùa Đồng Nhân, năm 1873, quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội và các tỉnh lân cận: Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Nam Định, Hà Nam. Trong các trận chống giặc ở thành Bắc Ninh và vùng phụ cận, quân triều đình và quân nghĩa dũng bị thương vong rất nhiều. Để an ủi vong linh các binh sĩ trận vong, vua Tự Đức bèn ban hành sắc chỉ cho Tổng đốc Bắc Ninh tìm chọn một mảnh đất để qui tập hài cốt các binh sĩ trận vong để mai táng và dựng gần đó một ngôi chùa để vong linh họ được nương nhờ hương khói nơi cửa Phật.
Sắc chỉ của nhà vua ban hành liền được các quan đầu tỉnh hưởng ứng thực hiện nghiêm chỉnh. Kinh phí để xây dựng ngôi chùa đều từ nguồn quyên góp của người dân, lý dich vu seo, quan chức trong tỉnh Bắc Ninh. Văn bia “Công đức phương danh“ cho chúng ta biết số liệu như sau: có 146 làng và cá nhân cúng tiền, gạo, ruộng vào chùa, trong đó: một người cúng 100 quan, 2 người cúng 60 quan, một người cúng 30 quan, 5 người cúng 20 quan, một người cúng 17 quan, 23 người cúng 10 quan, 4 người cúng 9 quan, 4 người cúng 6 quan, 20 người cúng 5 quan, 2 người cúng 4 quan, 13 người cúng 3 quan, 11 người cúng 2 quan, 55 người cúng 1 quan. Có một người (nguyên Bá hộ Nguyễn Văn Chuyên) cúng 60 quan tiền, 60 gơ gạo, 3 mẫu ruộng và khai quang tượng Phật trị giá 440 quan. Có 2 người vừa cúng tiền, vừa cúng gạo vừa cúng ruộng (một người cúng 20 quan, 2 gơ gạo và 3 sào ruộng, một người cúng 20 quan, 5 gơ gạo và 4 sào ruộng). Có 3 người vừa cúng gạo vừa cúng tiền (một người cúng 10 quan và 3 gơ gạo, một người cúng 20 quan quan và 5 gơ gạo, một người cúng 6 quan và 2 gơ gạo). Có 4 người chỉ cúng gạo (một người 20 gơ, một người 5 gơ, một người 2 gơ và một người 1 gơ). Hầu hết những người cung tiến tiền của trong dịp xây dựng chùa Đồng Nhân là quan chức của tỉnh Bắc Ninh, của các huyện; chức dịch của các làng và một số vị Tú tài. Người dân tham gia cung tiến vào chùa không nhiều. Điều này rất khác với nhiều chùa ở Bắc Ninh.
2. Chùa Đồng Nhân là ngôi chùa duy nhất ở Bắc Ninh có một vị Lưỡng quốc Hòa thượng.
Sau khi chùa Đồng Nhân được xây dựng xong, quan đầu tỉnh Bắc Ninh thỉnh Hòa thượng Thích Thanh Cao về trụ trì.
Hòa thượng Thích Thanh Cao (xin xem ảnh) quê làng Mạc Xá huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương là vị cao tăng đầu tiên của Việt Nam được triều đình cử sang Cộng hòa Pháp truyền bá đạo Phật vào năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) theo đề nghị của vua Louis đệ tam. Ngài cũng là vị sư Việt Nam đầu tiên có công xây dựng ngôi chùa thờ Phật đầu tiên tại Pháp theo mô hình chùa Việt. Trong thời gian chuẩn bị vật liệu xây chùa, Hòa thượng Thích Thanh Cao tranh thủ học tiếng Pháp từ những thương nhân Pháp và đã có đủ vốn tiếng Pháp để giao dịch với người Pháp. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), công việc xây chùa làm tượng hoàn thành, Hòa thượng thăng tòa thuyết pháp bằng tiếng Pháp về Tam qui, Ngũ giới, Thập thiện, về học thuyết Tứ diệu đế, Bát chính đạo,... Cử tọa nghe thuyết pháp là Hoàng đế Louis đệ tam và các triều thần nước Pháp. Khi Hòa thượng Thích Thanh Cao hoàn thành công việc, về nước, hoàng đế nước Pháp tặng ngài huân chương “Bắc đẩu bội tinh” và sắc phong ngài là “Cao tăng Hòa thượng”. Hiện nay, tại gian giữa tòa nhà tổ có ảnh chân dung của ngài và bức hoành phi với 4 chữ lớn “Lưỡng quốc Hòa thượng” và một số đôi câu đối có nội dung nói về sự kiện Hòa thượng sang Pháp truyền bá đạo Phật:
- Giác liễu sắc không, tức tu thư hải thượng, tức thuyết pháp Tây đình, tứ đại yên vân khai tục chướng,
- Điệp mông vinh tặng, nhược ngân tiền thùy viện, nhược giáo đạo độ điệp, cửu thiên vũ lộ cập sơn môn.
(Hàn lâm Kiểm thảo Lê Sĩ Phong,
người Nhân Mục tặng)
Tạm dịch:
- Hiểu hết các lẽ sắc không, khi soạn sách trên đường, khi thuyết pháp bên Tây, khi tĩnh tọa khói mây, liền hiểu ra nghiệp chướng,
- Không gì rộng bằng lá điệp, tiền bạc chẳng bằng ai, nếu giảng về điệp độ qua chín nghìn đường mưa gió, để đến được sơn môn.
Đây là vị cao tăng duy nhất và đầu tiên của Việt Nam được một vị Hoàng đế nước cộng hòa Pháp phong là Hòa thượng.
Sau khi ở Pháp về nước một thời gian, Hòa thượng Thích Thanh Cao được nhà vua ban cho long bài, được mời về trụ trì chùa Đồng Nhân. Sau khi về trụ trì chùa Đồng Nhân, Hòa thượng Thích Thanh Cao xây dựng chùa theo mô hình giống như ngôi chùa mà ngài đã xây dựng ở Cộng hòa Pháp.
Hòa thượng Thích Thanh Cao không những là một vị cao tăng mà còn là một nhà Nho uyên thâm và một lương y có đức độ trong đời. Câu đối sau đây cho chúng ta biết điều đó:
- Thăng đường thuyết pháp đa niên, vi thiền sư, vi danh nho, vi lương y, đại đạo uẩn tàng nguyên tự phủ,
- Tài hội tiến thư phong thưởng, hữu tinh bội, hữu long bài, hữu đạo điệp, thử thời tam thế cảnh kỳ quan.
(Mùa xuân năm Thành Thái thứ 4 (1892), pháp tử Thành Vực xã Dĩnh Kế phủ Lạng Giang bái hạ).
Tạm dịch:
- Lên tòa thuyết pháp nhiều năm, là thiền sư, là danh nho, là lương y, đạo lớn chứa đầy, trong lòng có sẵn,
- Dâng thư hai lần được thưởng, có Bội tinh, có Long bài, có đạo điệp, ngày nay nhìn khắp thật hiếm thay.
Ngài cũng tổ chức quyên góp kinh phí để khắc ván in các bộ kinh điển Phật giáo (bộ “Diệu pháp liên hoa kinh”, “Dược sư”, “Lương hoàng thủy sám”, các sách thuốc của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và một số sách thơ văn (bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh”, “Dương án, âm án”, tập “Hàn Sơn tự thi tập”,...
Lưỡng quốc Hòa thượng Thích Thanh Cao viên tịch ngày 22 tháng 10 năm Bính Thân, niên hiệu Thành Thái thứ 7 (1896). Di cốt của ngài hiện được tàng trong tháp Thanh Mạc trong khuôn viên chùa Đại Tráng.
3. Chùa Đồng Nhân là nơi đồn trú của nghĩa quân Nguyễn Cao
Nguyễn Cao sinh năm Đinh Dậu (1837) tại làng Cách Bi tổng Bồng Lai huyện Quế Dương, đỗ Cử nhân khoa thi Hương năm Đinh Mão (1867) tại trường thi Hà Nội, nhưng không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Năm 1873, thực dân Pháp xâm lược bắc kỳ lần thứ nhất, ông mộ được hơn 1.000 nghĩa dũng và tổ chức chặn đánh giặc ở vùng Siêu Loại, Gia Lâm. Năm 1874, Nguyễn Cao được cử giữ chức Tri huyện Yên Dũng vì có công cầm quân giữ yên vùng ven sông và vùng rừng núi, sau đó được tiến cử giữ chức Tri phủ Lạng Giang vì có công giúp triều đình tuyển mộ quân lương. Năm 1880, ông được tiến cử vào chức Thương biện tỉnh Nam Định, rồi vài tháng sau được thăng lên chức Án sát sứ ty. Năm 1881, ông được thăng lên chức Bố Chánh sứ Thái Nguyên, Tán lý Bắc thứ quân vụ. Tháng 3 năm 1982, Nguyễn Cao dẫn quân đến đồn trú tại chùa Đồng Nhân để chuẩn bị tấn công quân Pháp trong thành Bắc Ninh. Tại đây, ông được Hòa thượng Thích Thanh Cao mời soạn văn bia “Đồng Nhân tự bi ký”.
Việc Hòa thượng Thích Thanh Cao nổi tiếng uyên bác cả Nho giáo và Phật giáo mời võ quan Nguyễn Cao soạn văn bia cho chùa mình đang trụ trì chứng tỏ vị Hòa thượng này rất hâm mộ tài đức của Nguyễn Cao và đây cũng là điều hiếm thấy trong lịch sử Phật giáo tỉnh Bắc Ninh.
4. Chùa Đồng Nhân là ngôi chùa duy nhất ở Bắc Ninh có nhà thờ các quan và nhà thờ các binh sĩ trận vong
Nhà thờ các quan được xây dựng vào năm Duy Tân thứ 4 (1910), rộng 5 gian bằng gỗ lim, có tượng và bài vị các vị được thờ. Hiện nay, tượng và bài vị của các ngài đều không còn; nhà thờ các quan cũng được dùng làm nhà khách. Việc thờ cúng các vị quan hiện nay được thờ chung trong chùa.
Nhà thờ các binh sĩ trận vong được xây dựng ở phía sau nhà thờ các quan rộng ba gian bằng gỗ lim, được xây dựng cùng thời với nhà thờ các quan. Ngôi nhà đã bị phá từ lâu. Năm 2009, dân hàng phố công đức tiền của xây dựng lại và nay được sử dụng làm nơi thờ Địa tạng Bồ tát.
5. Chùa Đồng Nhân được xây dựng do sự công đức của các quan chức
Nếu ngôi chùa của các làng ở Bắc Ninh được xây dựng là do có rất nhiều tín đồ thập phương công đức tiền ruộng thì chùa Đồng Nhân được xây dựng lại có sự công đức của hầu hết các quan chức trong và ngoài tỉnh, các vị lý dịch ở các làng xã trong vùng.
Có lẽ vì chùa được xây dựng do hầu hết các quan chức và lý dịch công đức nên trước đây, vào các ngày tiết lệ, chùa chỉ có các quan chức đến lễ Phật. Đó là các vị: Tổng đốc, Bố chánh, Tri phủ, Đốc học, Hàn lâm, Tri huyện, Chánh tổng, Lý trưởng,... mà ít thấy có người dân. Theo vị sư trụ trì cho biết thì do quan chức ở tỉnh Bắc Ninh hàng quí về lễ Phật tại chùa Đồng Nhân, nên tỉnh đường cho mở một con đường từ trung tâm tỉnh thành Bắc Ninh đến chùa Đồng Nhân để tiện việc đi lại. Con đường đó có tên là đường Đấu Mã.
6. Chùa Đồng Nhân là ngôi chùa duy nhất có tòa Tam bảo mở hướng chính Bắc
Tìm hiểu nhiều ngôi chùa ở các tỉnh thuộc miền Bắc Việt Nam, chúng tôi thấy tòa Tam bảo đều được ở về hướng Tây, hoặc Tây Nam, nhưng tòa Tam bảo chùa Đồng Nhân lại được mở hướng chính Bắc. Tìm hiểu đặc điểm này, chúng tôi được vị trụ trì chùa giải thích rằng: Hướng chùa do đích thân Hòa thượng Thích Thanh Cao chọn. Sở dĩ Hòa thượng chọn hướng chính Bắc cho tòa Tam bảo vì để trấn yểm tà khí từ khu nghĩa địa ở núi Thấp gần đó không xâm nhập vào chùa.
Tóm lại, mặc dù chùa Đồng Nhân không phải là ngôi cổ tự có lịch sử lâu đời như nhiều ngôi chùa cổ ở Bắc Ninh, nhưng nó lại có những đặc điểm riêng. Những đặc điểm riêng này không thấy có ở các ngôi chùa trong vùng. Tìm hiểu những đặc điểm của chùa Đồng Nhân, vốn tri thức của chúng ta sẽ được bổ sung thêm về sự phong phú của văn hóa Phật giáo vùng Bắc Ninh.
Ý kiến ()