Trong tất cả các vị vua phong kiến của lịch sử Việt Nam, có lẽ chỉ có Trần Thánh Tông là vị vua đã đem trọn vẹn cả tuổi xuân của mình hiến dâng cho đất nước. Cả thời gian thanh xuân này, vua đã dốc sức cho cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Trong lịch sử Việt Nam, Trần Thánh Tông là vị vua duy nhất tham gia và chỉ đạo liên tiếp ba cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên, vào các năm 1238, 1265 và 1288. Cuộc đời của vua, tuy ở chốn lầu vàng điện ngọc, nhưng thực sự là một bài ca hùng tráng, đúng với ý nghĩa lấy nhân nghĩa làm gốc.
Trần Thánh Tông làm thơ, tuy không nhiều song những bài thơ để lại đạt đến trình độ điêu luyện và thể hiện tính dân tộc rất cao. Ông đã trực tiếp tham gia trận mạc và có một trình độ quân sự vững vàng. Các vị tướng tài thời nhà Trần như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là em của ông.
Sự rộng lượng, bao dung của vua Trần Thái Tông, một bài học sâu sắc cho Trần Thánh Tông. Trần Thánh Tông được giáo dục, tôi luyện cùng thực tế chiến đấu trên chiến trường, đã giúp có bản lĩnh vững vàng khi ông lên ngôi vua. Được truyền ngôi vua Trần Thánh Tông vẫn giữ vững tinh thần độc lập dân tộc.
Suốt ba cuộc kháng chiến chống giặc Mông-Nguyên sang xâm lược, vua Trần Thánh Tông đều tham gia và chỉ đạo cuộc kháng chiến để giành thắng lợi.
Thời kỳ vua Trần Thánh Tông chính thức làm vua cũng là thời kỳ đất nước thái bình, thịnh trị. Vua Trần Thánh Tông là vị vua nhân từ, trung hậu. Vua thường xuyên nói với tả hữu “Thiên hạ là của cha ông để lại, nên để cho anh em cùng hưởng phú quý”. Bởi vậy, trừ các buổi thiết triều, vua mới phân biệt trên dưới, còn thường ngày, vua cho các hoàng thân quốc thích vào điện ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, thật hoà hợp thân ái. Về đối nội, ông dốc lòng xây dựng đất nước mạnh giàu. Ông là người đầu tiên có chủ trương cho các vương hầu thành lập các điền trang; được chiêu tập những người phiêu tán, không có sản nghiệp về làm nô tỳ, khai khẩn ruộng hoang, bãi lầy sú vẹt ven biển. Chế độ điền trang, thái ấp thực sự bắt đầu từ đây. Đó là nền tảng xây dựng cơ sở vững mạnh cho Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
Ông rất quan tâm đến việc lựa chọn những Nho sinh có tài bổ vào cơ quan Nhà nước (như: quán, sảnh, viện…), cấp tiền ăn học cho người có khả năng, trọng dụng những người thông thái. Dưới triều ông, có tổ chức các khoa thi, chọn được những Trạng nguyên như Trần Cố, Bạch Liêu, Đào Tiêu… Cũng thời gian này, bộ Đại Việt sử ký toàn thư, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, do Lê Văn Hưu chấp bút được hoàn thành (năm 1272). Những nhân tài như Đặng Kế, Đỗ Quốc Tá, Bùi Phóng… đều tụ hội về phò tá nhà vua. Ông cũng là người đầu tiên bỏ một lệ cũ của nhà Trần. Trước đây ai được nhận chức Hành Khiển, đều là nội nhân (người trong họ). Nay vua Trần Thánh Tông đã “mở cửa” để thu hút nhân tài, không nhất thiết người ở trong họ vua mới giao việc lớn. Chính vì thế ông nổi tiếng là một vị vua biết tôn người hiền, trọng kẻ sĩ. Song có lẽ, sâu sắc nhất ở ưu thế này là tư tưởng phóng khoáng của con người tuổi trẻ trong ông.
Có một nét chung trong các hoàng thân, quốc thích, vua và các vương hầu tử đệ thời nhà Trần, là sự đoàn kết gắn bó với nhau. Tất cả đều sẵn sàng xoá bỏ những hiềm nghi trong cuộc sống hàng ngày, cùng nhau giữ gìn cơ nghiệp. Nhiều người thường nhắc đến nghĩa cử cao đẹp của Trần Hưng Đạo, gác bỏ mối thù riêng giữa hai người cha (Trần Liễu và Trần Cảnh) để tận tuỵ phục vụ nhà vua Trần Thánh Tông. Cũng chính sự hoà hợp giữa Trần Quốc Tuấn và Trần Cao Khải đã trở thành một giai thoại lịch sử đẹp, chứng tỏ tinh thần đoàn kết của các vương hầu. Rồi Trần Thủ Độ, Trần Nhật Duật đều là những người có cử chỉ bao dung, rộng rãi, không chấp trách những điều nhỏ nhặt, cốt giữ hoà khí trong dòng họ cũng như trong triều đình. Nhưng tiêu biểu hơn cả cho tinh thần này, lại là ở Trần Thánh Tông, với câu nói nổi tiếng được ghi chép trịnh trọng trong sử sách. Ông nói với các vương hầu: “Thiên hạ là của Tổ Tông, người nối nghiệp Tổ Tông nên cùng anh em trong họ cùng hưởng phú quý, tuy bên ngoài là cả thiên hạ phụng sự một người tôn quý, nhưng bên trong thì ta cùng với các khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui”.
Lời nói của vua Thánh Tông thực thấu tình đạt lý. Và ngay trong sinh hoạt hàng ngày ông cũng thể hiện sâu sắc tinh thần ấy. Trong dòng họ Trần, cha con, anh em luôn hoà thuận, vui vẻ. Có câu chuyện, vào lúc Trần Hoảng đã lên ngôi (Trần Thánh Tông). Ông là con thứ hai. Anh cả là Trần Quốc Khang. Nhưng vua Thái Tông Trần Cảnh thấy con đầu của mình, tài năng có phần hạn chế, nên đã quyết định nhường ngôi cho Trần Hoảng. Trần Quốc Khang không băn khoăn tỵ nạnh gì, vui lòng nhận tước tĩnh Quốc Đại Vương, để ủng hộ cho em lên ngôi Hoàng đế. Một ngày vui vẻ trong cung. Quốc Khang bắt trước người Hồ múa một điệu múa, ai xem cũng thích mắt. Thượng Hoàng Trần Thái Tông rất vui vẻ, liền cởi áo thưởng cho Quốc Khang, Trần Hoảng lúc này đã làm vua, cũng nhảy ra múa điệu múa nhà Hồ, để xin Thượng Hoàng ban thưởng. Quốc Khang nói ngay:
- Cái quý nhất trong đời này là ngôi Hoàng đế, con đã không tranh với chú hai. Bây giờ con đây được Thượng Hoàng ban cho cái áo nhỏ mọn, mà chú hai cũng định cướp lấy chăng?
Thượng Hoàng Trần Cảnh cả cười nói:
- Thế ra con coi ngôi vua với cái áo xoàng này chẳng hơn kém gì nhau cả.
- Tất cả cùng cười ồ lên vui vẻ.
Câu chuyện bình thường nhưng chứng tỏ một tinh thần hoà đồng, đoàn kết yêu thương của anh em vua Trần. Sau đó, vua cứ làm vua, quan cứ làm quan, anh em đồng tâm nhất trí giữ gìn cơ nghiệp nhà Trần. Hàng ngày, xong buổi chầu, họ cùng nhau ăn uống, hoặc khi trời tối không về được thì đặt gối dài, chăn rộng cùng ngủ liền giường với nhau. Khi có lễ lớn, hay thết đãi tân khách mới phân biệt ngôi thứ cao thấp.
Song Trần Thánh Tông không vì nghĩa mà xoá mọi việc. Ông biết cân nhắc để định rõ vị trí, xác định tài năng. Người anh thúc bá của ông là Trần Quốc Tuấn tài năng ưu việt hơn cả, ông và cả con ông sau này (vua Trần Nhân Tông) tôn làm thiết chế, thống lĩnh quân đội. Các em ông như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật… đều giữ những cương vị xứng đáng trong triều. Những kẻ lầm lỗi như Trần Ích Tắc (cũng là em ông) bị ông xoá tên, chỉ gọi Ả Trần (hèn nhát như đàn bà). Những người có công lao được ông ban thưởng có mức độ, thưởng mà vẫn nhắc họ cảnh giác với quân thù. Câu nói của ông được sử sách nhắc đến.
“Các ngươi quả biết rõ giặc Hồ không dám đến xâm lược nữa thì nói rõ cho Trẫm biết, dù có thăng lên đến cực phẩm, Trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế đã vội thưởng hậu, lỡ ra giặc Hồ trở lại mà các ngươi lại lập công nữa thì Trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ”.
Vua Trần Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái Thượng Hoàng 13 năm. Vua Thánh Tông mất năm 1290, hưởng thọ 51 tuổi. Cả cuộc đời thanh xuân vua Thánh Tông tham gia và chỉ đạo ba lần đánh thắng giặc Mông-Nguyên. Ông là vị vua trí cao, nhân cách lớn, sống nhân từ, bao dung, trung hậu, luôn lấy nhân nghĩa làm đầu. Ông làm vua vì nước, vì dân, vì sự vững bền cơ nghiệp nhà Trần. Ông thương dân, tin quý các Vương hầu, tôn vinh người hiền tài, trọng kẻ sĩ, làm nên sự nghiệp vĩ đại của dân tộc, đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước hưng thịnh./.
Đức Tâm
Ý kiến ()