Chùa Bút Tháp có tên là Ninh Phúc tự thuộc làng Bút Tháp (tên cũ là Nhạn Tháp) xã Đình Tổ huyện Thuận Thành.
Chùa được khởi dựng vào thời Trần (thế kỷ XIV) do thiền sư Huyền Quang-Trúc Lâm đệ tam tổ-hưng công và được thiền sư Chuyết Chuyết mở rộng quy mô vào thế kỷ XVII. Chùa đã được công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg, ngày 9 tháng 12 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ và nhiều hiện vật quý được công nhận là “Bảo vật quốc gia”. Chùa Bút Tháp cũng là cơ sở thờ tự Phật giáo ở Bắc Ninh có số lượng văn bia thời Lê tương đối nhiều, chứa đựng giá trị lịch sử, giá trị văn hoá độc đáo.
Theo kết quả tìm hiểu, chùa Bút Tháp có 18 văn bia (trong đó có 1 bia hậu thần và 1 bia mộ). Để giúp bạn đọc nắm được nội dung cơ bản của văn bia chùa Bút Tháp, chúng tôi xin tóm tắt:
- Văn bia “Khánh lưu bi ký/Ninh Phúc thiền tự bi ký”: dựng vào ngày tốt tháng 11 năm Giáp Ngọ niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714), ghi chép về việc: Tả Đô đốc Thiếu bảo Luân Quận công Lê Đoan Hậu và vợ là Nhu Thuận quận chúa Trịnh Thị Minh Châu vốn dòng dõi quí tộc, thích làm việc thiện. Vợ chồng ông đã xuất tiền và 3 mẫu ruộng giúp dân làng Nhạn Tháp tu sửa chùa, được xã dân tôn bầu làm hậu Phật. Văn bia cũng ghi rõ qui định về thể thức cúng giỗ và vị trí, diện tích các thửa ruộng.
- Văn bia “Phụng lệnh bi” dựng vào ngày 19 tháng 10 năm Phúc Thái thứ 4 (1646), do Phương Lộc nam Nguyễn Đắc Thọ viết chữ, khắc lại nguyên văn Lệnh chỉ của Đại Nguyên soái Thống quốc chính Thái Thượng sư Văn Thanh vương (Trịnh Tráng) chuẩn cho dân xã được làm dân tạo lệ, được miễn các khoản phu sai, làm đường, đắp đê, nghênh tiếp sứ giả,… Con gái của Hoàng Thái hậu là Lê Thị Ngọc Duyên hiệu Diệu Tuệ có ruộng thế nghiệp ở huyện Yên Mô (tỉnh Ninh Bình) đã cúng cho xã Nhạn Tháp để thờ Phật.
- Văn bia không có tiêu đề gắn trên tháp Ni Châu ghi chép về việc: Ni cô hiệu Diệu Viên tu ở chùa Ninh Phúc mua ruộng để gửi giỗ cho bản thân và cha mẹ là ông Hiển Phương hầu họ Nguyễn, tự Huyền Vi và bà họ Nguyễn hiệu Thuần Thục. Văn bia còn ghi rõ những qui định về thể thức cúng giỗ và vị trí, diện tích của 22 thửa ruộng.
- Văn bia không có tiêu đề ở tháp Ni Châu, do sư trụ trì chùa Ninh Phúc là Tính Hài soạn, dựng vào ngày tốt tháng 5 năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) ghi chép về tiểu sử vị sư ni được tàng xá lỵ trong tháp Ni Châu.
- Văn bia “Sắc kiến Tôn Đức tháp khoán thạch” gắn trên tháp Tôn Đức, dựng vào ngày tốt tháng 11 năm Canh Tý niên hiệu Vĩnh Thọ năm thứ 3 (1660), khắc lại toàn văn bản Sắc tặng của vua Lê ban cho sư Minh Hành. Trong đó biểu dương công tích và hành trạng của sư.
- Văn bia không có tiêu đề trên tháp Tôn Đức, dựng vào ngày tốt tháng 3 năm Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 (1739), do Cai hợp Nguyễn Đình Tông viết chữ, ghi chép về việc: Tỷ khưu ni hiệu Diệu Viên nguyên trụ trì chùa Ninh Phúc đã mua 1 mẫu 1 sào 5 thước ruộng của xã Nhạn Tháp và xã Đại Trạch giao lại cho sa môn Tính Hải quản lý, đem phân cho dân bản xã canh tác thu hoa lợi dùng để thờ Phật và thờ vị tôn sư phái Trúc Lâm là Như Tùy thiền sư. Văn bia ghi lại thể thức cúng giỗ và vị trí, diện tích 6 thửa ruộng.
- Văn bia “Tâm Hoa tháp” được gắn trên tháp Tâm Hoa, dựng vào ngày tốt tháng 2 năm Đinh Tỵ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 3 (1737), do vị sư chùa Diên Phúc, hiệu Thích Điều Điều soạn, Sa di Tính Cẩn viết chữ, ghi lại tiểu sử nhà sư Như Chúc, người được tàng xá lỵ ở tháp Tâm Hoa. Văn bia có bài minh 32 câu ca ngợi công đức của nhà sư Như Chúc.
- Văn bia không có tiêu đề gắn trên tháp Tôn Đức, dựng vào ngày tốt tháng Giêng năm Tân Dậu niên hiệu Chính Hoà thứ 2 (1681), chép tiểu sử vị tổ thứ 2 chùa Ninh Phúc là Minh Việt Thành đẳng Chính giác Đại đức thiền sư.
- Văn bia không có tiêu đề gắn trên tháp Tôn Đức, ghi chép tiểu sử vị Tỳ khưu ni Diệu Tuệ tu ở chùa Ninh Phúc và diện tích, vị trí của 36 thửa ruộng do bà cúng vào chùa.
- Văn bia không có tiêu đề gắn trên tháp Tôn Đức, được dựng vào ngày tháng tốt năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hoà năm thứ 5 (1684), có nội dung: Sa di Lê Thị Ngọc Nghinh tự Chân Phúc ở chùa Ninh Phúc là người có lòng từ bi, sống đôn hậu, được dân làng yêu mến. Vì thế, sau khi bà qua đời, Tỷ khưu ni Diệu Tuệ đã mua 1 mẫu 2 sào ruộng để giao cho bản xã canh tác làm ruộng hương hỏa cúng giỗ sa di Chân Phúc. Văn bia cũng ghi rõ qui định về thể thức cúng giỗ và vị trí, diện tích 14 thửa ruộng.
- Văn bia “Hiến thụy am Báo Nghiêm tháp bi ký/Hiến thụy am hương hỏa điền bi ký” ở am Hiến Thuỵ, dựng vào ngày tắm Phật tháng Sen (ngày 8 tháng 4) năm Đinh Hợi niên hiệu Phúc Thái thứ 5 (1647), do Âu Dương Vựng Đăng tự Thể Chân hiệu Thanh Nguyên cư sĩ soạn, Sa di Chân Kiến, quê xã Phù Chẩn huyện Đông Ngàn viết chữ. Mặt trước ghi: các cung tần Chính cung phủ Trần Thị Ngọc Am hiệu Pháp Giới, Đào Thị Ngọc Hữu, Lương Thị Ngọc Tiến xuất tiền mua số ruộng (tương đương 110 gánh thóc) giao cho dân tạo lệ xã Nhạn Tháp trông nom canh tác để thờ phụng nhà sư Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế đại đức thiền sư (Chuyết Chuyết). Mặt sau ghi hành trạng của Chuyết Chuyết. Có bài minh 26 câu ca tụng công đức.
- Văn bia “Sắc kiến Ninh Phúc thiền tự bi” gắn trên tháp Tâm Hoa, dựng vào ngày Tắm Phât, tháng Sen năm Đinh Hợi niên hiệu Phúc Thái thứ 5 (1647), do Minh Hành Tại Tại, hiệu Vân Thủy sa di soạn, Sa di Chân Kiến, quê xã Phù Chẩn huyện Đông Ngàn viết chữ. Văn bia cho chúng ta biết: Chùa Ninh Phúc còn có biệt danh là Thiếu Lâm. Bia khắc bài thơ thất ngôn ca ngợi cảnh chùa. Một đoạn chép các thửa ruộng của Quận phu nhân Luân Quận công cúng cho xã Nhạn Tháp để thờ cúng tổ tiên.
- Văn bia “Ninh Phúc thiền tự Tam bảo tế tự điền bi”, dựng vào ngày Tắm Phât, tháng Sen năm Đinh Hợi niên hiệu Phúc Thái thứ 5 (1647), có nội dung: Hoàng Thái hậu họ Trịnh (Trịnh Thị Ngọc Trúc), đạo hiệu Pháp Tính là người sùng đạo phật. Bà đã góp công của tu sửa xây dựng chùa, xây điện Từ Hiếu và mua ruộng cúng cho xã Nhạn Tháp làm ruộng hương hỏa thờ Phật. Cuối bia có ghi vị trí, diện tích của 53 thửa ruộng.
- Văn bia “Ninh Phúc thiền tự Tam bảo tế tự điền bi”, dựng vào ngày Tắm Phật tháng Sen năm Đinh Hợi niên hiệu Phúc Thái thứ 5 (1647), có nội dung: Tỳ khưu ni hiệu Diệu Tuệ mua ruộng cúng vào chùa làm ruộng Tam bảo, giao cho xã Nhạn Tháp trông nom canh tác để thờ Phật và cúng giỗ cho 4 người: cha đẻ là Cường Quận công Lê Vinh Tiến, thụy Vĩnh Định, cha mẹ nuôi và con trai đã chết của bà. Cuối bia có ghi vị trí, diện tích của 13 thửa ruộng.
- Văn bia “Ninh Phúc thiền tự Tam bảo tế tự điền bi”, dựng vào ngày tốt tháng Trọng Đông (tháng10) năm Giáp Dần niên hiệu Đức Nguyên thứ nhất (1674), khắc lại tờ Sắc của vua Lê cho phép xây tháp Tôn Đức. Qua đó, chúng ta biết tiểu sử thiền sư Minh Hành Tại Tại. Phần cuối, ghi việc Tỳ khưu ni hiệu Diệu Tuệ xuất tiền mua 2 mẫu ruộng giao cho các giáp xã Nhạn Tháp trông nom canh tác để thờ phụng Minh Hành. Cuối bia có ghi qui định các thể thức cúng giỗ và vị trí, diện tích các thửa ruộng.
- Văn bia “Trùng tu Ninh Phúc tự bi”, dựng ngày tốt tháng 9 năm Quý Mão niên hiệu Thành Thái 15 (1903), có nội dung: chùa Ninh Phúc được xây dựng từ thời Lê Trung hưng, đến nay đã hơn 300 năm, vì thế bị hư hỏng nhiều. Tổng đốc Hoàng Trọng Phu đã cùng các vị Bố chánh, Tri phủ, Tri huyện trong tỉnh bỏ tiền ra công đức khởi xướng tu sửa lại, người ít nhất là 1 đồng, nhiều nhất là 50 đồng. Văn bia có ghi họ tên các vị quan chức trong vùng đã tiến cúng tiền bạc, ghi cụ thể số tiền của từng người. Ngoài ra, khách thập phương tiến cúng được hơn 500 nguyên. Nay lập bia ghi lại để lưu truyền về sau.
Tìm hiểu văn bia chùa Bút Tháp là một trong những nguồn tư liệu quý để nghiên cứu về tình hình Phật giáo, tình hình sử dụng ruộng đất, đời sống tín ngưỡng của người dân, của giới quan chức cao cấp thời Lê Trung Hưng và kỹ thuật chạm khắc đá ở nước ta thế kỷ XVII- XVIII. Để giữ gìn và phát huy giá trị nhiều mặt của di sản văn hoá của các bậc tiền bối, chúng tôi nghĩ, mọi công dân cần có ý thức bảo quản, giữ gìn nguồn tư liệu quý giá đó.
Nguyễn Quang Khải
Ý kiến ()