Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên sinh ngày 1- 3-1923, tên thật Nguyễn Hữu Vũ, quê ở xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, xuất thân trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ, do chịu ảnh hưởng của gia đình, đồng chí sớm đã có tinh thần chống thực dân Pháp. Năm 12 tuổi, đồng chí bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lấy bí danh là Nguyễn Văn Đồng.

Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên thị sát trên đèo Phu La Nhích - đường 20 Quyết Thắng, tỉnh Quảng Bình, năm 1972.
Năm 1940, đồng chí được cử làm Bí thư chi bộ Trung Thôn (mật danh là chi bộ Bình). Cùng năm này đồng chí theo học bậc trung học tại trường Saint Marie ở thị xã Đồng Hới (nay là TP.Đồng Hới). Một năm sau, đồng chí được phân công làm Bí thư chi bộ tại trường. Những hoạt động của đồng chí sớm bị chính quyền thực dân theo dõi. Vì vậy, khi đang học năm thứ 3 bậc Thành chung, đồng chí bị thực dân Pháp truy nã và phải chuyển vào bí mật tại Lào và Thái Lan, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước để gây dựng cơ sở.
Năm 1944, đồng chí bí mật trở về Việt Nam hoạt động, phụ trách Phủ ủy Quảng Trạch, làm chủ nhiệm báo Hồng Lạc và xây dựng chiến khu Trung Thuần, huấn luyện quân sự, tham gia Cách mạng Tháng 8. Sau Cách mạng Tháng 8, đồng chí được bầu làm Chủ nhiệm Việt Minh, kiêm Chỉ huy trưởng bộ đội Quảng Bình. Năm 1946, đồng chí trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I. Khi chiến tranh Đông Dương nổ ra, đồng chí được phân công làm Chính trị viên kiêm Tỉnh đội trưởng Quảng Bình. Trong thời gian 1947-1948, đồng chí chỉ huy nhiều trận tấn công quân Pháp, vì vậy, để tránh liên lụy đến gia đình, đồng chí dùng tên mới là Đồng Sĩ Nguyên, cái tên về sau gắn bó với đồng chí trong cuộc đời còn lại.
Năm 1950, đồng chí được rút về Việt Bắc học lớp trung cao quân sự, sau đó được điều về Tổng cục Chính trị làm phái viên, biệt phái tham gia Bộ Tư lệnh cánh phối hợp Trung - Hạ Lào trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954. Sau năm 1954, đồng chí được điều về Bộ Tổng tham mưu, phụ trách Cục Động viên dân quân. Năm 1959, đồng chí được phong quân hàm đại tá. Năm 1961, được cử sang Trung Quốc học trường Cao cấp Quân sự Bắc Kinh; Năm 1964, đồng chí về nước và được đề bạt giữ chức vụ Tổng tham mưu phó một thời gian ngắn rồi được điều về làm Chính ủy Quân khu 4 năm 1965, sau đó là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Trung - Hạ Lào. Cuối năm 1965, đồng chí bị thương, phải về Hà Nội điều trị. Đầu năm 1966, đồng chí được cử giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, kiêm Chủ nhiệm Hậu cần tiền phương.
Đầu năm 1967, đồng chí được điều làm Tư lệnh Đoàn 559 (từ 1970 gọi là Bộ Tư lệnh Trường Sơn), ông giữ chức vụ này đến năm 1976. Đây là giai đoạn mà cuộc đời binh nghiệp của Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên gắn liền với tuyến đường Trường Sơn huyền thoại của 30 năm kháng chiến chống Mỹ - nơi đồng chí đảm trách vị trí tư lệnh của hơn 120.000 quân trong suốt những năm 1967 - 1976.
Thời điểm đồng chí được Bác Hồ và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ Tư lệnh bộ đội Trường Sơn (1/1/1967) là thời kỳ Mỹ đang đánh phá quyết liệt, bom đạn Mỹ đổ xuống Trường Sơn ác liệt nhất. Đây cũng là lúc chúng ta quyết định chuyển hướng từ vận chuyển bằng gùi, thồ, bằng phương tiện thô sơ sang hoạt động cơ giới. Trước những khó khăn bước đầu, nhiều ý kiến cho rằng, không thể vận chuyển bằng cơ giới được vì nếu địch ngăn chặn, đánh phá, ta sẽ không bảo toàn được lực lượng. Tuy nhiên, tại cuộc họp Bộ Tư lệnh 559, chính đồng chí Đồng Sỹ Nguyên đã nêu quan điểm, muốn thắng địch, muốn phát triển lực lượng để cân bằng với địch, để cách mạng miền Nam có thể giành được thắng lợi, thì phải vận chuyển bằng cơ giới. Đó là quyết tâm chuyển hướng táo bạo, quyết đoán và cũng là dấu ấn thể hiện bản lĩnh chỉ huy của đồng chí Đồng Sỹ Nguyên.
Trong suốt thời gian giữ chức Tư lệnh Trường Sơn, đồng chí đã kiên định thực hiện chủ trương này. Khi vào Trường Sơn, đồng chí có 5 tiểu đoàn xe với 750 xe, chia thành 4 binh trạm, việc chi viện vào chiến trường miền Nam còn rất khó khăn. Thế nhưng, chỉ 8 năm sau, đến đầu 1975, chỉ riêng vận tải cơ giới, Trường Sơn có 2 sư đoàn với hơn 10.000 xe. Tướng Đồng Sỹ Nguyên đã nói với Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh: "Cần bao nhiêu gạo, đạn, xăng và xe chở quân cũng có đủ".
Một dấu ấn nữa của Tướng Đồng Sỹ Nguyên là tư tưởng chỉ đạo dũng cảm, táo bạo mà kiên cường. Lúc đầu, để bảo toàn lực lượng, bộ đội ở Trường Sơn chủ yếu là “phòng tránh”, các lán trại cũng đặt cách đường vận chuyển 2 - 3 cây số. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên đã trực tiếp nghiên cứu, khảo sát thì thấy rằng, cách hoạt động như vậy không ổn. Đồng chí cho rằng, đánh địch phải bám thắt lưng địch mà đánh, nên bố trí của bộ đội Trường Sơn như vậy sẽ không hiệu quả, gây khó khăn cho việc chỉ huy cũng như hoàn thành nhiệm vụ của các lực lượng. Chính vì vậy, đồng chí đã quyết định yêu cầu tất cả các binh trạm, các chỉ huy, đơn vị phải trực tiếp bám đường, bám trận địa, trực tiếp ngăn chặn sự phá hoại của quân thù với quan điểm “đánh định mà đi, mở đường mà tiến”.
Tướng Đồng Sỹ Nguyên cũng là người chỉ huy rất sáng tạo để tháo gỡ những khó khăn trên chiến trường. Là tư lệnh nhưng đồng chí luôn đi đầu, sát chiến trường, sát trận địa, sát với anh em chiến sĩ để tìm hiểu tình hình từ đó đưa ra những giải pháp hiệu quả cho chiến trường. Khi ấy, Mỹ đánh phá rất ác liệt, đặc biệt là chúng dùng máy bay C-130 ném bom, gây cản trở rất lớn cho lực lượng vận chuyển của ta. Nhiều anh em chiến sĩ khi ấy lo lắng và cho rằng, nếu cứ tiếp tục sẽ hy sinh lớn. Trước tình hình đó, Tướng Đồng Sỹ Nguyên đã bàn với lãnh đạo, chỉ huy của Bộ Tư lệnh Trường Sơn và đề xuất biện pháp giải quyết bằng cách tạo ra “con đường kín”. Con đường kín ấy giúp chúng ta chạy được cả ban ngày mà địch không thể phát hiện được, từ đó giúp chúng ta tăng được cả tốc độ lẫn lưu lượng vận chuyển chỉ viện cho chiến trường miền Nam.
Lịch sử ghi nhận trong gần 10 năm làm Tư lệnh Trường Sơn, Tướng Đồng Sỹ Nguyên đã có những quyết định sáng tạo trong chỉ đạo, tổ chức lực lượng, xây dựng, phát triển, khai thác hiệu quả đường Trường Sơn và lập nhiều chiến công đặc biệt xuất sắc. Đường Trường Sơn là hệ thống đường giao thông với 5 trục dọc và 21 trục ngang, tổng chiều dài hơn 17.000 km, cho xe cơ giới vận chuyển gần 2 triệu tấn vũ khí, đạn dược, lương thực vào Nam. Trên con đường huyền thoại này, chỉ từ năm 1973-1975, bằng xe cơ giới, 40 vạn quân được chuyên chở và tổ chức hành quân cho 25 đoàn binh khí kỹ thuật vào chiến trường, chuyển hàng vạn thương binh về hậu phương, đưa hàng ngàn thiếu nhi vượt Trường Sơn ra Bắc học tập. Những người lính Trường Sơn còn lắp đặt đường ống xăng dầu dài 1.400 km…
Chiến công của Bộ đội Trường Sơn là vô cùng to lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trên cương vị Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn từ đầu năm 1967 đến 30-4-1975, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên đã cùng tập thể Đảng ủy, Bộ tư lệnh Bộ đội Trường Sơn lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, hoàn thành xuất sắc 5 nhiệm vụ chiến lược do Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao, có ý nghĩa chiến lược rút ngắn thời gian giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước…
Do có thành tích đặc biệt xuất sắc trên cương vị Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, đầu năm 1974, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng; tập thể Bộ đội Trường Sơn và 82 tập thể, 51 cá nhân thuộc Bộ đội Trường Sơn được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Tên tuổi của Tướng Đồng Sỹ Nguyên luôn đi cùng với những kỳ tích như người tổ chức thế trận giao thông liên hoàn, giăng lưới lửa trên đỉnh Trường Sơn, với con đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, được giới truyền thông quốc tế mệnh danh là "trận đồ bát quái xuyên rừng rậm" và là một trong những nhân tố mấu chốt đưa quân và dân ta đến chiến thắng lịch sử ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Hòa bình, thống nhất Tổ quốc, năm 1976, Tướng Đồng Sỹ Nguyên được cử giữ chức Thứ trưởng Quốc phòng, phụ trách Tổng cục Xây dựng kinh tế, rồi Thứ trưởng Thường trực Bộ Xây dựng. Năm 1979, đồng chí được điều trở lại quân đội, giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Thủ đô. Tháng 8/1979, đồng chí được điều trở lại công tác tại Bộ Xây dựng, giữ chức Bộ trưởng, Bí thư Ban cán sự đảng Bộ Xây dựng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982), đồng chí được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị; được bổ nhiệm giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đồng chí được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị; giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ).
Năm 1991, đồng chí thôi giữ chức Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, được cử làm Đặc phái viên Chính phủ thực hiện Chương trình 327 “trồng bảo vệ rừng phòng hộ”; tham gia chỉ đạo xây dựng đường Hồ Chí Minh. Đồng chí được nghỉ công tác từ tháng 10-2006.
Sau khi được nghỉ công tác, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên vẫn thường xuyên theo dõi tình hình phát triển của đất nước, tham gia nhiều hội nghị, nhiều sự kiện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Quốc hội, Chính phủ và nhiều bộ, ngành Trung ương và địa phương. Đồng chí đã có nhiều ý kiến tâm huyết đóng góp cho Đảng, Nhà nước trên nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước. Tướng Đồng Sỹ Nguyên mất ngày 4/4/2019, hưởng thọ 96 tuổi.
71 năm hoạt động cách mạng, dù trên cương vị, lĩnh vực nào, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; đem hết sức lực, trí tuệ của mình cống hiến cho Đảng, cho nhân dân và suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng năm 2007 và Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng tháng 12-2018) và nhiều phần thưởng cao quý khác.
P.V (tổng hợp)
Ý kiến ()