Trung tuần tháng 3 vừa qua, trong khi tiến hành tu bổ tháp đá Tôn Đức phía sau khu nhà Tăng, chùa Bút Tháp, xã Đình Tổ (Thuận Thành), họa sĩ Phan Cẩm Thượng (người trực tiếp hưng công tu bổ) và tốp thợ đã phát hiện trong tháp có 2 quyển sách bằng đồng, khắc chữ Hán rất đẹp và gần như mới. Bước đầu có thể xác định, đây là 2 cuốn kinh Phật cổ được xem như đồ tuỳ táng của nhà sư Minh Hành được Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc tổ chức an táng trong ngôi tháp chùa Bút Tháp.
Phục chế sách cổ - trăm cái khó?
Sau khi phát lộ hai cuốn Kinh bằng đồng có trọng lượng khoảng 30 kg, kích cỡ 14,4x25cm gồm 56 tờ; được bó bọc kín trong những lớp giấy dó, cùng hai cây kim loại (đã hoen rỉ và gãy) dùng để lật sách trông tựa như chiếc trâm cài tóc của phụ nữ. Ngay sau khi biết tin, Cục Di sản văn hóa, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Bắc Ninh đã về làm việc cùng UBND huyện Thuận Thành, xã Đình Tổ, thôn Bút Tháp và họa sĩ Phan Cẩm Thượng thống nhất trước mắt bàn giao cổ vật cho Bảo tàng tỉnh nhanh chóng tiến hành phục chế 2 cuốn sách. Song, không ai dám khẳng định sự nhọc công đến mức “táo bạo” trong việc phục chế sách cổ của những người trong cuộc có thể được đền đáp xứng đáng.
Trao đổi với chúng tôi, ông Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng Bắc Ninh cho biết: “Hiện nay, một mặt Bảo tàng hoàn thiện các thủ tục cần thiết và dự toán kinh phí để phục chế hai cuốn kinh cổ. Mặt khác nhanh chóng tìm nghệ nhân để khắc chữ cho kịp tiến độ trả lại sách vào nguyên chỗ cũ trong tháp và lắp tấm đá cuối cùng lại bảo vệ an toàn cho tháp”. Trước sức ép phải hoàn thành việc phục chế 2 cuốn kinh cổ trong 60 ngày, các cán bộ Bảo tàng đã tìm khắp làng nghề đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) và phố Hàng Đồng (Hà Nội) để mua nguyên liệu. May mắn là đã tìm được duy nhất một cửa hàng ở phố Hàng Đồng có bán lá đồng dày 1mm đáp ứng được yêu cầu. Tìm mua được nguyên liệu đã khó, việc phục chế còn khó hơn bội phần như việc làm cũ những lá đồng tương ứng những trang sách cổ cho đến tìm người khắc chữ.
Để có được “màu thời gian” như cuốn sách cổ, các cán bộ Bảo tàng Bắc Ninh đã phải dùng nước chè cộng thêm một số thủ pháp “ngón nghề” của các nghệ nhân làng đúc đồng Đại Bái để tạo màu cho các lá đồng mới tinh sang cũ kỹ mà tuyệt nhiên không sử dụng đến nước muối và hóa chất để tránh bị ăn mòn. Tuy nhiên, cho dù bằng mọi cách phủ màu thì so với cuốn sách cổ, những trang sách mới cũng chỉ là một 10, một 8.
Khó nhất vẫn là tìm người khắc chữ. Bởi các nghệ nhân làng nghề đúc đồng Đại Bái (Gia Bình) chỉ đơn thuần khắc chữ trên các lư hương, đồ thờ cúng… ít người hiểu chữ Hán nên không ai dám đảm trách công việc tuy không nặng nhọc nhưng đòi hỏi sự tinh tế này. Do đó ai cũng từ chối không dám nhận vì họ chưa bao giờ khắc những chữ nhỏ trên các lá đồng dày 1mm. Theo ông Lê Viết Nga thì đây là khâu hóc búa nhất. Tất cả các trang sách đều được khắc theo lối đục hớt để nét chữ thanh thoát, các nét hất, nét móc bay như viết bằng bút lông trên giấy dó nên không phải thợ nào cũng làm được. Các thợ lành nghề về chạm khắc, có hiểu biết về Hán tự được mời đến đều thoái thác vì quá khó.
Qua nhiều kênh thông tin, các cán bộ ngành Văn hóa Bắc Ninh cũng đã mời được họa sĩ Ngô Đắc Lợi ở Bắc Giang tham gia khắc thử một số trang. Ông Lợi là họa sĩ rất khéo tay và tận tụy với công việc. Chưa biết cụ thể số tiền thù lao mình sẽ được nhận là bao nhiêu nhưng vẫn gắng chạm khắc và mỗi ngày ông cũng làm được hai trang với khoảng 200 chữ. “Cẩn tắc vô ưu”, nếu gặp những chữ đã bị hoen rỉ, nhìn không rõ thì ông bỏ lại để cán bộ Bảo tàng rà soát, bổ sung và dich vu seo nghĩa.
Anh Nguyễn Hữu Mạo, người trực tiếp chỉnh sửa lại những trang sách phục chế cho hay: “Không chỉ khó ở cách đục hớt để cho nét chữ bay như chữ thư pháp mà nó còn khó ở công đoạn làm cũ một cuốn sách mới và giữ màu cho nó. Việc xử lý tạo màu nhân tạo đã khiến cho chữ bị bong vảy lớp mặt, loang to hơn bản gốc và nhiều chữ không rõ nét. Nhiều khả năng, sau khi đục xong sẽ phải xử lý lại lần nữa bằng cách quét nước chè và hun khói”.
Hiện tại, ngoài việc “sao y bản chính” khắc lại 2 cuốn kinh cổ trên chất liệu đồng để lưu trữ, Bảo tàng tỉnh còn tiến hành dập khuôn bằng giấy dó, chụp ảnh từng trang và scan lưu giữ trên máy vi tính. Gấp rút xử lý hiện vật, in ấn, chụp ảnh, đo vẽ để làm tư liệu cho hồ sơ hiện vật và cơ sở khoa học để phục chế, dịch nghĩa toàn bộ 2 cuốn sách này.
Chưa biết đưa cuốn sách nào vào tháp
Vậy sau khi hoàn thành việc phục chế 2 cuốn Kinh cổ, chúng ta sẽ trả bản gốc hay bản phục chế về tháp? Ông Lê Viết Nga cho rằng: “Theo tôi nên để lại bản gốc ở Bảo tàng vì nó có giá trị để nghiên cứu sau này cả về mặt ngữ nghĩa lẫn chất liệu. Nếu chôn vào tháp bản gốc thì chúng ta vĩnh viễn không bao giờ được nhìn thấy nữa. Và về sau này nếu chúng ta có điều kiện nghiên cứu cũng không thể lấy ra được vì với trọng lượng tấm đá phía ngọn tháp nặng tới hàng trăm kg không dễ dỡ ra. Đó còn chưa kể vấn đề tâm linh”.
Vậy xét về góc độ tâm linh, coi đó là 1 lá bùa, nếu bỏ ra cho bản phục chế vào thì mất thiêng? Ông Nga giải thích: “Về tâm linh, như thời cổ, không dứt khoát là phải cho bản gốc, có chăng là bản thật nhưng là minh khí. Đưa được hiện vật vào là cái tốt nhưng từ xưa đến giờ đưa hiện vật vào là tốn kém, có thể đưa bản sao hoặc bản giấy. Vấn đề bảo vệ, chắc chắn tại kho của Bảo tàng sẽ an toàn hơn vì có phương pháp và chức năng bảo quản, bảo vệ hiện vật tránh mất cắp, có điều kiện trông coi tránh nạn ăn cắp đồ cổ. Dù là tháp đá nhưng đạo chích vẫn có thể cạy ra để lấy. Mặt khác nó còn gây ra sự tò mò và không chỉ mất an toàn cho cuốn sách mà còn cho cả nhiều hiện vật giá trị khác của nhà chùa. Thậm chí chúng còn nghi các tháp khác cũng có cổ vật dẫn đến phá tháp để tìm”.
Trao đổi với các cán bộ làm công tác bảo tồn, bảo tàng họ đều mong muốn có hiện vật gốc để trưng bày, giới thiệu, nhất là những hiện vật quý hiếm như hai cuốn Kinh cổ. Nếu chôn vào tháp thì sẽ mất đi một hiện vật gốc không bao giờ có ai được xem nữa, không thể dỡ ra mỗi lúc cần nghiên cứu. “Nếu vì lý do tâm linh thì có thể giữ lại một số bản gốc để phục vụ công tác nghiên cứu sau này, chứ nếu đưa toàn bộ sách cổ vào tháp thì không có tác dụng nghiên cứu. Nếu 2 cuốn kinh cổ nội dung chỉ là kinh thì các chùa khác cũng có thể có bản bằng giấy” - ông Nga cho biết thêm.
Còn quan điểm của sư thầy Thích Thanh Đông, trụ trì chùa Bút Tháp cũng như ý nguyện của phật tử và chính quyền xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành mong muốn xin lại bản gốc 2 cuốn sách để hoàn trả vào chỗ cũ trên ngọn tháp tỏ rõ sự linh thiêng của Kinh cổ.
Sư thầy Thích Thanh Đông cho rằng: “Cổ nhân xưa khi làm ngôi tháp Tôn Đức (tháp cao thứ 2 sau tháp Báo Nghiêm, chùa Bút Tháp) đã đặt những tấm đá có mộng, có khớp rất tinh tế. Trong tòa tháp, cuốn sách được đặt ở tầng thứ 3, phía trên có những tấm đá nặng tới 900 kg và ở độ cao hàng chục mét thì việc trộm cắp cổ vật là rất hãn hữu. Còn việc chiêm ngưỡng cuốn Kinh cổ thì du khách thập phương ngưỡng vọng bản phục chế cũng sẽ hiểu đôi phần về xuất xứ cuốn sách, cứ gì phải là bản gốc. Bên cạnh đó còn là vấn đề tâm linh của cuốn sách nữa chứ, nên phật tử nhà chùa mong muốn đưa bản gốc vào trong tháp”.
Hiện tại, chưa biết có trả bản gốc 2 cuốn Kinh cổ vào tháp hay không nhưng việc quản lý 2 cuốn Kinh cổ hiện tại rất khó. Giải thích về việc này, các cán bộ Bảo tàng Bắc Ninh cho rằng: Vì không biết mình có được quản lý hay không nên không giao vào kho mà vẫn “tạm giữ” để phục chế. Theo các nhà nghiên cứu thì việc phát hiện những cổ vật là sách đồng ở nước ta rất hiếm. Cho tới nay, mới phát hiện được một số cuốn như: “Cầu Không từ ký” ở Cầu Không, thôn Văn An, xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam; 4 cuốn đồng thư triều Nguyễn ở Quảng Nam; cuốn sách đồng làng Mai Phúc (xã Ngọc Thụy, Gia Lâm) và Đông Lao (Hoài Đức, Hà Nội)…
Bài và ảnh: Nguyễn Viết Thái Bình
Ý kiến ()