Về Thượng Thôn, Đông Tiến (Yên Phong) một ngày mùa đông, chợt giật mình khi nghe tiếng trống chầu, âm thanh đàn đáy tha thiết cùng giọng ca đào nương nồng nàn, mời gọi… Lần theo điệu ca trù mê hoặc trong tiếng sênh phách rộn ràng ấy, chúng tôi tìm vào nhà cụ Đào Văn Cường và bất ngờ xúc động bởi cảnh tượng giữa chiếu chầu là những nghệ nhân tuổi trên dưới 80 xuân đang say sưa với lời ca, nhịp phách, tiếng đàn, thoảng nghe đã biết là người “có nghề”: “Xưa ... ngày xưa Tuyết muốn lấy ông. Ông chê. Ông chê Tuyết bé. Tuyết không biết gì. Đến thì. Bây giờ Tuyết đã đến thì. Ông muốn lấy Tuyết. Tuyết - Tuyết chê ông già. Hồng Hồng Tuyết Tuyết. Mới ngày nào còn chưa biết chi chi. Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì. Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu…”.
Một thời vang bóng
Thượng Thôn, xã Đông Tiến (Yên Phong) cách đây hơn 80 năm còn có tên gọi là Đông Lâu thuộc tổng Nội Trà, huyện An Phong, phủ Từ Sơn (Bắc Ninh). Đông Lâu có truyền thống hát ca công (tức Ca trù ngày nay), cả làng chỉ có một dòng họ Đào (chiếm 95%). Làng có Nhà thờ ông Tổ Ca trù tên là Đào Thư Từ. Theo sử sách truyền lại, nhà thờ Thượng Thôn được xây dựng cùng thời gian với nhà thờ Lỗ Khê (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội) nằm trên khu đất rộng 3 sào nhìn về hướng Nam, có hậu cung, kiến trúc kiểu bát vần, đằng trước có ao thả sen, cửa bức bàn, cột đồng trụ được chạm trổ rồng phượng; bên trong thờ tượng ông Tổ, có ông Ỷ, đỉnh hương, hòm sắc, hạc thờ… Người trông nom, đèn hương sớm tối ở Nhà thờ tổ là một ông trùm Ca trù trong dòng họ.
Thượng Thôn ngày ấy, hễ là con trai ai cũng biết chơi đàn đáy, con gái tất nhiên hát ả đào. Chẳng cần qua trường lớp đào tạo nào, chỉ dựa vào truyền khẩu, truyền tay, tự nghe tự học, thế mà con gái Thượng Thôn cứ 13, 14 tuổi là thạo ca, phách; con trai 15, 16 tuổi biết cầm chầu đánh đàn, nhiều gia đình tạo thành “bộ ba gắn kết”: chồng đàn, vợ hát, con trai đánh trống chầu. Biết bao đào nương nổi tiếng, kép đàn hay, tay trống giỏi quanh năm suốt tháng được mời đi biểu diễn khắp nơi. Sôi nổi nhất là 3 tháng Xuân, các địa phương xa, gần tổ chức hội làng, mừng thọ, khao cử, lễ đình, lễ đám… tìm đến Thượng Thôn mời hát. Cái ngày xa xôi ấy, người ta nghe ca trù với tất cả sự say mê và trân trọng, hát ca trù đã thực sự trở thành nghề mang lại thu nhập chính và cuộc sống no đủ cho người dân trong làng…
Cuộc sống đang yên bình như thế thì xảy ra chiến tranh, loạn lạc, năm 1949, giặc Pháp kéo đến càn quét xóm làng, nhân dân Thượng Thôn phải dời xa quê hương theo cách mạng đến vùng tản cư, tập trung sản xuất dồn sức phục vụ kháng chiến. Ngày trở về, ngôi làng thân yêu đã trở thành bãi chiến trường, nhà thờ Tổ bị san phẳng, chẳng tìm nổi dấu vết gì về nghề hát nữa. Thời vàng son vang bóng của Thượng Thôn từ đó chỉ còn lại trong tiềm thức và nỗi nhớ day dứt của các nghệ nhân ca trù hoài cổ…
Thổn thức nỗi niềm nghệ nhân tuổi 80
Cuối năm 2009, một sự kiện gây “chấn động”, làm xôn xao cộng đồng yêu ca trù khi loại hình nghệ thuật này được UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Thượng Thôn những ngày ấy gần như… không ngủ, người người, nhà nhà nói chuyện, bàn về ca trù. Lớp nghệ nhân già còn sót lại vài người như cụ Cường, bà Chung, cụ Trân, ông Chước, bà Thẩm… thì tâm tư thực sự xáo động. Các cụ đều qua tuổi “tri thiên mệnh” từ lâu để có thể đoán được tương lai trở lại của ca trù sau mấy chục năm bỏ quên, mà ngày trở về lại “mũ áo xênh xang” như thế. Cụ Đào Văn Cường thuở còn trai tráng là một kép đàn và tay trống có tài, khắp nơi biết tiếng về tài nghệ gảy đàn và múa trống của cụ. Sinh năm 1931, ngấp nghé tuổi 80 nhưng trông cụ còn phong độ lắm, giọng sang sảng hào khí, tay thoắt vài điệu trống, cụ bộc bạch: “Hơn 60 năm không cầm cây đàn, cái trống, tưởng đã “đoạn tuyệt” hẳn với ca trù, mà nay đắm mình trong điệu trống chầu, ngỡ mình đang ở mấy thập niên về trước, thuở còn lon ton theo mẹ cha đi diễn hát phường…”. Ngày ấy cậu bé Cường là một thiếu niên thanh tú mà sáng dạ lắm, dòng máu ca trù “ngấm” vào cậu từ bao giờ không biết, chỉ nhớ rằng âm thanh đàn đáy của cha và tiếng phách ả đào mộng mị của mẹ theo cậu cả trong giấc ngủ. Tuổi 15, cậu đã đi hầu hết các tỉnh, địa phương lân cận đánh trống, từ Hải Dương, Bắc Giang, Hưng Yên… đến Khâm Thiên (Hà Nội)-địa danh ca trù nổi tiếng đất Bắc thời bấy giờ. Vì tiếng đàn tài hoa và âm trống giòn giã như có ma thuật mà cậu được nhiều nơi biết đến, có khi diễn xướng quanh năm, chẳng nghỉ buổi nào. Buồn cười nhất là cha mẹ cậu nhiều khi cũng chẳng biết con đi đâu, vì những bạn phường trong họ, trong nghề, thấy cậu ưu điểm quá, thỉnh thoảng lại tranh thủ “mượn”, ông này mượn xong lại “truyền tay” ông kia, để mà được tự hào khoe “dối” với thiên hạ rằng “ấy, thằng này nó là… con tôi đấy…”.
Hỏi chuyện đào nương Mẫn Thị Chung có 20 năm đi hát, ngạc nhiên khi ở tuổi 83 cụ còn giữ được chất giọng “sang” đến thế, trong trẻo, mềm mại và uyển chuyển như của thiếu nữ. Phong thái thâm trầm mà lịch thiệp, cả khi cụ không ngồi giữa chiếu chầu, tôi vẫn thấy phảng phất dáng dấp của một ca nương. Tay cầm phách, cụ khe khẽ hát lại bài “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”, rồi đột nhiên giữa âm điệu dịu dàng ấy, cụ thoắt sang nhịp phách lạ với khí thế rộn ràng: “Bóng cờ đỏ sao vàng phấp phới/Giục lòng ta bước tới chốn Trường Sa/Nước Việt Nam là tổ quốc của chúng ta/Quân giặc Pháp dám cả gan mà quay lại/Thiên cổ giang sơn, thiên cổ tại/Bách niên hậu kiệt, bách niên xuân/Kíp mau mau vào vệ quốc quân/Cho tỏ mặt giai nhân cứu quốc/Đồng chí hỡi, đồng chí hỡi, hãy cùng nhau ta tiến bước…”. Nét mặt ửng hồng, cụ giải thích: “Đây là bài tôi vẫn thường hát với chị em trong những ngày đi tản cư, hát suông thôi, căm bọn giặc xâm lược thì hát, vì làm gì có nhạc cụ. Về sau này, khi nghề hát mất, lúc buồn nhớ vẫn giấu con cháu hát vài điệu. Cứ ngỡ thời gian phôi pha thế, cũng bạc luôn cả mấy câu ca trù, mà qua bao gió sương vùi lấp, giờ lại như vẹn nguyên… Nhớ sao là nhớ cái thời còn mặc quần thủng, áo vá, ngày băm bèo, bế em, tối xem hát cửa đình, rồi thầy mẹ mời hẳn cả một ông kép giỏi về dạy, ban đầu học lời bài hát mãi không thuộc, đâm sợ hát, sau thuộc rồi lại say nghề, điệu nào cũng thạo, từ tỳ bà, cung bắc, ngâm thư đến huê tình… Ngày xưa các cụ chẳng có cuộc thi nào để “đo” tay nghề, nhưng thiên hạ cũng “sành” lắm, cứ nhằm ca nương tài hoa, nhạc công giỏi để mời…”. Cụ Chung bảo, hát ca trù rất khó, không ai hát hộ được, học hát ca trù cũng không nhịp nhàng và ngược lại, kỹ thuật đưa hơi và cách nhả chữ cũng không kém phần quan trọng, bên cạnh nhạc công thì ca nương là yếu tố chính góp phần thổi hồn và cảm xúc cho buổi diễn.
Ông Đào Văn Chước, nghệ nhân cùng thời với cụ Cường và bà Chung, khá thành thạo về trống tâm sự: “Nhạc công trống chầu phải đánh đúng khổ, theo được phách lên xuống, đặc biệt tiếng trống phải giòn. Tiếng trống ca trù cũng rất linh hoạt, người già và người trẻ thể hiện khác nhau, có khi lại đánh một lúc cả 2 mặt trống… Người đánh trống chầu cũng phải thuộc, hiểu các làn điệu ca trù, biết chỗ nào đắc ý để thưởng trống. Có người vì mê ca trù mà đi học trống, nhưng say mê và năng khiếu là hai chuyện khác nhau, có khi anh hiểu, cảm thụ được nhưng đôi tay không như ý muốn, học mãi mà không thành nghề, phải bán cả vườn, ruộng để theo, “mất nghiệp” vì trống mà vẫn không thạo nghề…”.
Theo các lão nghệ nhân, hát ca trù đỉnh cao phải đạt đến nghệ thuật phối hợp tinh tế, mẫn cảm đầy nhịp nhàng giữa phách, đàn, trống, đặc biệt là chất giọng quý, điêu luyện của ca nương. Hiện “vốn liếng” của các cụ còn ngót nghét khoảng… gần trăm bài ca trù phù hợp cho từng giọng (hát nói, hát ru, hát cửa đình…).
Thức dậy không gian ca trù xưa
Chúng tôi may mắn được biết chị Nguyễn Minh Hằng - cán bộ phong trào của phòng Văn hóa huyện Yên Phong là người say mê và nặng lòng với Ca trù. Những tâm sự của chị chất chứa nhiều trăn trở về môn nghệ thuật dân tộc có nguy cơ thất truyền: “Tôi không biết vì sao mình yêu ca trù, nhưng tôi nghĩ sống giữa cái nôi của ca trù mà không yêu mới lạ. Từ năm 2001, tôi nhiều lần về Thượng Thôn tìm gặp những “báu vật sống”, tặng cả đàn, trống cho nghệ nhân, thuyết phục các cụ khôi phục, truyền nghề hát cho thế hệ sau nhưng đều thất bại. Các cụ vẫn canh cánh trong lòng “nỗi đau” một thời chịu tiếng xấu, tiếng oan về nghề hát cô đầu do số ít kẻ lợi dụng hình thức hát xướng này trá hình mại dâm. Nghệ thuật truyền thống quý báu của quê hương tưởng như vĩnh viễn không thể phục dựng… Vậy mà, thật bất ngờ, khi ca trù được cả thế giới biết đến, vinh danh trở thành Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, công chúng có cái nhìn đúng đắn về ca trù thì đó cũng là lúc các lão nghệ nhân ở Thượng Thôn nhận biết, ý thức rõ trách nhiệm phải gìn giữ, lưu truyền di sản”.
Từ sức mạnh cộng đồng ấy, cách đây hơn nửa năm, được sự động viên, chung sức chung lòng của đông đảo bà con, Câu lạc bộ Ca trù Thượng Thôn đã đi vào hoạt động với 22 thành viên, trong đó có 5 em nhỏ từ 11-15 tuổi tích cực tham gia, duy trì luyện tập 2-3 buổi/tuần… Đáng mừng là các nghệ nhân dù tuổi cao nhưng còn rất minh mẫn, đủ sức khỏe tham gia truyền dạy. Ông Đào Xuân Tràng, Chủ nhiệm CLB Ca trù Thượng Thôn chia sẻ: “Ban đầu CLB cũng gặp đôi chút khó khăn, vì hình thức hát này bỏ quên suốt mấy chục năm nên các nghệ nhân cứ nhớ đến đâu thì truyền dạy đến đó. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, khi CLB biểu diễn thử nghiệm đã được nhân dân trong thôn khen ngợi, đánh giá cao, khích lệ các thành viên chuyên tâm học hỏi”. Cô bé Nguyễn Thị Ngọc, 11 tuổi, quê ở Thượng Thôn nhưng nhà ở thành phố Bắc Ninh, ngoài giờ đến trường vẫn dành thời gian về học ca trù, tâm sự: “Cháu vô cùng tự hào khi biết rằng quê hương mình là một trong những nơi khởi nguồn của ca trù, hàng ngày cháu vẫn gặp các cụ, nhưng không nghĩ họ lại là những nghệ nhân tài hoa như vậy. CLB mới thành lập nên còn khó khăn lắm, các thành viên phải góp tiền mua nhạc cụ, vậy mà các nghệ nhân già vẫn ngày ngày hết lòng truyền dạy. Cháu sẽ cố gắng chăm chỉ luyện tập để không phụ lòng mong đợi của các cụ…”.
Trong căn nhà đơn sơ của cụ Cường, tận mắt chứng kiến sự tận tuỵ, uốn nắn từng lời ca, nhịp phách, tiếng đàn mới thấy tâm huyết bảo tồn nghệ thuật quê hương của các nghệ nhân cao tuổi. Thế mới biết, khi nghệ thuật truyền thống được nuôi dưỡng ngay chính “cái nôi” của nó thì “chất cốt” vốn có khó mà mất đi được, thậm chí còn có khả năng thăng hoa, niềm yêu ca trù được truyền từ đời này qua đời khác. Lần lượt, họ đã làm sống lại “không gian ba người gắn kết” - bộ ba linh hồn của thứ nghệ thuật bác học cất giữ đậm đặc giá trị truyền thống dân tộc qua một số tác phẩm ca trù: Đào hồng, Đào tuyết; Sông Thương nước chảy đôi dòng; Ai ơi gặp gỡ làm chi đó… đúng như nhà nghiên cứu âm nhạc-GS. Trần Văn Khê từng nhận xét: “Chỉ có 3 người tạo nên không khí diệu kỳ gây cảm xúc mãnh liệt”… Tỷ mỷ hướng dẫn một bạn trẻ cách cầm đàn đáy, cụ Đào Văn Cường xúc động: “Nguyện vọng lớn nhất của tôi bây giờ là đào tạo được lớp đào kép trẻ vững tay nghề và gắn bó lâu dài với ca trù, lưu lại một nét văn hoá truyền thống của cha ông. Mẹ tôi ngày xưa, một chữ bẻ đôi không biết mà hát rất hay, có khi đang nấu cơm, đun cám mà còn cầm que đời gõ phách… Vì thế tôi vẫn khuyên các cháu: đã học ca trù là phải đam mê, kiên trì, hôm nay chưa biết thì học một, mai học hai, dần rồi sẽ thành thạo. Học ca trù mà lơ đễnh thì sớm muộn bỏ đi, ví như đàn đáy chỉ dạy theo kiểu truyền ngón chứ không có nhạc lý, đố ai ghi được nhạc lý của đàn đáy, vì thế không tập trung làm sao lĩnh hội hết nghệ thuật công phu này. Trước khi truyền ngón lại phải truyền âm, thẩm âm, sao cho cung, khúc nhôi nhịp nhàng, đạt đến âm thanh đàn đáy lúc dịu dàng, hiền hoà, khi dìu dặt, réo rắt, tòng theo tiếng hát đào nương thật chuẩn mới chinh phục được người nghe…”.
Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình “mê” ca trù, có thể dành cả ngày dài bề bộn công việc để rong ruổi về một vùng quê, quần xắn ngang đầu gối, chân đất, chỉ để xem và nghe hát ca trù. Nhưng rồi những làn điệu giàu cảm xúc, mới lạ mà da diết ấy cứ níu chân tôi… Sự “hồi sinh” của nghệ thuật ca trù ở Thượng Thôn đem đến nhiều hy vọng mới cho người dân nơi đây, nhưng chỉ dựa vào sự khởi đầu, manh nha của một CLB, liệu ca trù Thượng Thôn có cơ hội phát triển hưng thịnh như xưa? Song đối với một di sản văn hóa phi vật thể thế giới cần được bảo vệ khẩn cấp như ca trù thì thêm một CLB được thành lập, thêm một ca nương, kép đàn, tay trống là tiếp một niềm tin và hy vọng mới cho việc bảo tồn ca trù trong đời sống văn hoá người Việt. Để điều ấy trở thành hiện thực, có lẽ tình yêu, sự đam mê cháy bỏng và tâm huyết thôi chưa đủ, cần sự quan tâm thiết thực của các ngành chức năng, chính quyền địa phương và tỉnh, đặc biệt là chính sách với những nghệ nhân già. Giờ đây, lửa ca trù Thượng Thôn vẫn đang được thế hệ người dân địa phương thắp lên, truyền nhau gìn giữ để âm vang sênh phách cha ông lại được nối dài, vang vọng mãi…
Ngọc Duyệt-Trần Thảo
Ý kiến ()