Cô sinh vào năm Hợi nên bố mẹ đặt tên cô là Hợi. Các cụ quan niệm người tuổi Hợi thường phúc hậu, sáng dạ, có trí tuệ, có khả năng linh cảm, nhận biết vấn đề nhanh nhạy và cần cù, chịu thương, chịu khó, cuộc sống đời thường đầy đủ, gia đình sung túc, đông con cháu. Vậy mà cô Hợi chẳng được như thế, cuộc đời cô lắm gian nan, vất vả.
Năm ấy chú Bắc được về nghỉ phép trước khi vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Hai gia đình do quen biết đã sắp đôi cho cô Hợi và chú Bắc. Cô Hợi xinh xắn, nết na, tuổi cập kê nhiều chàng trai để ý. Không quen chú Bắc nhưng ở gần làng, cô Hợi cũng biết chú là con cụ Kháng, học giỏi nổi tiếng và hiền lành. Đám cưới cô Hợi và chú Bắc được tổ chức sau bốn ngày chú Bắc nghỉ phép. Cô gái mới chớm 18 tuổi, đêm tân hôn còn xấu hổ không dám vào buồng ngủ, ngồi dưới bếp đun hết siêu nước này đến siêu nước khác, gần cạn lại đổ nước vào đun tiếp, chú Bắc thấy vậy cũng xuống bếp ngồi cùng vợ. Ông bà Kháng sốt ruột không thấy các con đi ngủ, hắng giọng mấy lần. Rồi cả nhà thức dậy. Ông Kháng pha ấm trà gọi chú Bắc lên nói chuyện. Ông căn dặn đôi điều trước khi chú vào Nam chiến đấu, trong đó có ý nhắc sớm cho ông đứa cháu nội.
Ông Kháng sinh được ba người con, cô lớn đã đi lấy chồng, chú út còn nhỏ. Tối hôm dân làng đến chơi để hôm sau chú Bắc trả phép, mới hơn tám giờ mà đèn nhà ông đã cạn dầu. Ông Kháng đi nằm, mọi người biết ý cũng chào ra về. Vợ chồng cô chú gần nhau vẻn vẹn có ba ngày. Sáng sớm hôm sau tiễn chồng về đơn vị, cô Hợi bẽn lẽn không dám sánh đôi. Cô đi sau chú Bắc vài bước. Khi ra đường cái quan cô mới dám đi cạnh chồng nhưng chẳng nói được câu nào. Lúc tàu chuẩn bị khởi hành cô mới kịp ấn vào tay chồng tờ giấy gấp nhỏ, đôi mắt nhoè trong lặng lẽ. Tàu đi khuất cô còn đứng nhìn theo mãi.
Ngồi trên tàu chú Bắc mở tờ giấy ra xem thấy một bức ảnh cô Hợi với nụ cười rất tươi, chiếc nón sau lưng, quai nón trễ xuống cổ, phía sau tấm ảnh ghi dòng chữ nắn nót: Vợ của anh, Thanh Hợi.
Những điều không nói được bằng lời cô Hợi đã viết trong trang giấy nhỏ. Đọc thư chú Bắc ngạc nhiên, tưởng cô Hợi là người yếu đuối nhưng không phải, cô chu đáo, cặn kẽ, căn dặn chú từng tý như người chị gái. Câu cuối cùng trong thư: “Anh cứ yên tâm chiến đấu, ở nhà đã có em”. Vợ chồng cô chú chia sẻ với nhau chỉ có thế. Từ ngày chú Bắc ra đi chẳng có một lá thư nào gửi về nhà. Mùa xuân 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhà nhà tưng bừng, phấn khởi đón người thân đi chiến đấu trở về. Gia đình ông Kháng và cô Hợi chờ mãi không thấy tin chú Bắc. Nhiều lời đồn đại thất thiệt: chắc chú Bắc được cử đi làm nhiệm vụ bí mật, có người lại bảo chú bị địch bắt, biệt giam đâu đó… Chiến tranh đã kết thúc mấy năm mà vẫn im hơi, lặng tiếng khiến gia đình buồn lắm. Vài năm sau, có chính sách qui định: Nếu người đi chiến đấu bị mất tích, không có thông tin gì còn sống, thì đơn vị và địa phương làm thủ tục báo tử, công nhận là liệt sĩ. Chú Bắc nằm trong diện đó. Hôm báo tử chú Bắc, cô Hợi như cây liễu mỏng manh dẻo dai đương đầu với bão tố. Cô làm mọi việc, động viên bố mẹ giữ gìn sức khoẻ, điều quan trọng đối với cô bây giờ là sức khoẻ của bố mẹ chồng.
Hơn chục năm gắn bó với nhà chồng, cô Hợi chưa bao giờ để mọi người trong gia đình phàn nàn điều gì. Dân làng tin tưởng, bao năm bầu cô làm đội trưởng sản xuất, rồi cô lên công tác Hội Phụ nữ xã, việc gì cô cũng hoàn thành tốt. Đã ngoài ba mươi tuổi, cô Hợi vẫn trẻ và đẹp, ông bà Kháng thương con dâu, khuyên cô đi lấy chồng nhưng cô không nghe. Mấy năm sau, có gia đình ở xã bên, qua mai mối đã sang thưa chuyện với ông bà Kháng muốn hỏi cô Hợi cho chú em. Chú Phú đang ở trại thương binh, bị thương mất cả hai chân. Những lời động viên của hai gia đình nhà chồng và nhà đẻ, cô nghĩ: Chú Nam em chồng đã có gia đình, việc chăm sóc ông bà Kháng cũng ổn, anh Phú lại là thương binh nặng rất cần người chăm sóc nên cô chấp thuận.
Trước khi về nhà đẻ, cô thắp nén hương tạ lễ chồng, xin phép ông bà Kháng cho về bên nhà để gia đình anh Phú sang đón dâu. Lúc bước ra khỏi nhà ông bà Kháng, cô không kìm được nước mắt. Nhớ lại ngày cưới đông vui thế, họ hàng, người thân đón rước, cười nói rôm rả, nay về nhà lại thui thủi một mình. Lòng cô tái tê, thương cho phận mình thì ít, thương chồng và ông bà Kháng thì nhiều. Bước thấp, bước cao trong đêm tối, về đến nhà đẻ cô ngã vật ra giường.
Vẫn biết trời không cho ai tất cả và cũng không lấy đi của ai tất cả. Hơn 20 năm trôi qua, thằng Hà con của cô và chú Phú đã tốt nghiệp đại học Nông nghiệp, không vào cơ quan nhà nước mặc dù thuộc diện ưu tiên mà nằng nặc về quê làm trang trại. Mấy ha ruộng trũng, đấu thầu, nhờ có kiến thức và chịu khó nghiên cứu học hỏi, cần mẫn lao động nay thành vườn cây, ao cá, trại chăn nuôi cho thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng, cuộc sống tương đối sung túc.
Điều canh cánh trong lòng bà Hợi bấy lâu nay là không biết ông Bắc đã hy sinh ở đâu, chỉ mong sao tìm được hài cốt mang về nghĩa trang quê nhà để ấm lòng họ hàng và người đã khuất. Được ông Phú và cậu con trai đồng tình ủng hộ, bà Hợi phấn khởi lắm. Vốn là đứa nhanh nhạy, thằng Hà đi hỏi khắp nơi, nhất là những bác nhập ngũ cùng đợt ông Bắc, nó mong manh biết được ông Bắc ở một đơn vị đặc công, hy sinh ở Tây Nguyên. Chỉ có thông tin như vậy nó đã lên đường vào Tây Nguyên. Lần đầu tiên không thành, nó tiếp tục thu thập thêm thông tin từ nhiều người, nhờ cả các nhà ngoại cảm, với quyết tâm cao nhất đáp ứng ước nguyện của mẹ nó. Lần thứ 3 lại vào vùng đại ngàn, nơi được xác định nhiều khả năng ông Bắc hy sinh ở đó. Bà Hợi nằng nặc đòi đi cùng, bà bảo thằng Hà: Biết đâu có mẹ, bố Bắc linh thiêng run rủi mẹ con lại gặp may. Lời nói của bà như có linh cảm đặc biệt đưa đường chỉ lối. Qua mấy ngày trèo đèo, lội suối, theo hướng dẫn của nhà ngoại cảm cũng chẳng kết quả gì. Hai mẹ con tạt vào một ngôi nhà bên sườn đồi cạnh con suối nhỏ hỏi thăm. Trong nhà chỉ có một bà già người dân tộc, biết tiếng Kinh. Bà chủ nhà cứ nhìn chằm chằm hai mẹ con, nhất là bà Hợi. Ban đầu bà già người dân tộc cảnh giác quan sát. Mấy năm gần đây có rất nhiều dịch vụ đi tìm hài cốt liệt sỹ. Họ kiếm tiền từ việc nhân nghĩa này, đã có trường hợp đánh cắp hài cốt nên bà hết sức cẩn trọng. Nhưng càng nhìn trong đầu bà loé lên điều gì đó, bà chủ nhà buột miệng hỏi: Có phải hai mẹ con bà đi tìm hài cốt liệt sỹ?
Bà Hợi vội trả lời: Vâng! Sao bà biết?
Bà chủ nhà không nói gì, vào trong buồng và quay ra với một gói ni lông, đưa cho bà Hợi và nói: Cái này, có phải của bà? Hai người phụ nữ cùng lóng ngóng mở gói ni lông. Bà Hợi nhận ngay ra bức thư và tấm hình của mình đưa cho chồng trước lúc lên tàu.
Bà Hợi khuỵu xuống, một hồi sau mới lắp bắp: Sao bà có thứ này?
Bà chủ nhà cũng không khỏi bàng hoàng, trấn tĩnh lại bà nói: Tôi nhìn đôi mắt của bà giống người trong ảnh, thế mà đúng thật. Rồi bà kể: Rạng sáng hôm ấy, từ phía con suối cạnh nhà có tiếng súng nổ dữ dội, cả tiếng lựu đạn. Sáng sớm ra bờ suối thấy một anh bộ đội nằm sấp trong bụi cây, người vẫn còn ấm, tôi vội cõng về nhà hy vọng cứu sống nhưng vết thương quá nặng... Lục trong túi áo thấy có một gói ni lông được bọc cẩn thận, khi mở ra trong đó có tấm ảnh và tờ giấy, vì không biết chữ nên tôi gói lại, sau này thỉnh thoảng lại mở ra ngắm tấm hình.
Bà Hợi nóng ruột hỏi: Thế anh ấy giờ nằm ở đâu? Xin bà chỉ giúp!
Bà chủ nhà chỉ ra góc vườn, chú ấy ở ngoài kia, tôi chôn cất chú ấy bên phải mộ chồng tôi, ngôi mộ không có bia vì tôi không biết tên. Mấy chục năm rồi, tôi coi chú ấy như anh em trong nhà.
Bà Hợi bước nhanh ra khu vườn và ngã sụp xuống ngôi mộ.
Hôm đưa hài cốt ông Bắc về nghĩa trang liệt sĩ quê nhà, Lễ đón được tổ chức long trọng, bà H’Maryna dân tộc Ê Đê (người chôn cất chú Bắc) cũng có mặt. Thắp nén nhang, bà Hợi nấc trong tiếng khóc: Anh Bắc ơi, Hợi đây, vợ của anh đây… Thằng Hà quỳ xuống cạnh mẹ, hai mắt đỏ hoe: Bố ơi, tuy bố không sinh ra con, nhưng từ nay con xin được làm con của bố. Ông Phú ngồi trên chiếc xe lăn rưng rưng cảm động, ông tự hào về vợ con ông đã làm được những việc mà với ông là quá sức. Bà H’Maryna thắp nén hương lên ngôi mộ, trong đôi mắt nhoà lệ, ánh lên niềm vui khó tả. Bao năm trông coi, giữ gìn phần mộ nay lại được đưa hài cốt người mà bà luôn coi như ruột thịt về chính nơi chôn rau cắt rốn.
Truyện ngắn của Trường Sinh
Ý kiến ()