Để thấu hiểu những tên xã tên làng của mỗi vùng quê Bắc Ninh quả là một điều không dễ. Thời gian như đã khoả lấp tất cả, chỉ còn đây, một dòng sông chảy, một chiều quê buồn bã trong tiếng gió, tiếng xạc xào của cỏ cây.
Trở lại ngã ba Xà, Tam Giang, Yên Phong một sáng cuối thu. Sông Cầu mùa nước cạn, mặt sông vẫn lấp lánh ánh bạc, bóng con thuyền xa nhỏ nhoi gợi cho ta ký ức về một thuở xa xưa. Nước của hai dòng Cà Lồ và sông Công hợp lưu tại đây tạo nên những vòng xoáy nhỏ chính là chỗ để ngư dân đánh bắt cá tôm. Đền Xà, nơi thờ Lý Thường Kiệt như một ốc đảo nằm trơ trọi giữa một vùng đất bãi.
Truyền rằng tại đây, Trương Hống và Trương Hát, hai võ quan của Triệu Quang Phục khi thất thủ đã đục thuyền rồi trẫm mình xuống dòng nước xoáy quyết không đầu hàng Lý Phật tử. Sau khi tuẫn tiết, họ đã trở thành thần sông luôn hiển linh giúp dân canh nông trị thuỷ. Khi Lý Thường Kiệt xây phòng tuyến, hai ông đã hiến kế cho Lý Thường Kiệt đọc bài thơ thần “ Nam quốc sơn hà” tại đây làm cho quân giặc kinh hãi mà phải thua trận. Cho đến ngày nay, dọc theo sông Cầu, có tới 379 ngôi đình thờ hai ông làm thành hoàng làng và tôn vinh hai vị là Tam Giang đại vương.
Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, làng Xà ngày một đông đúc hơn, đến nay làng được chia làm hai thôn, thôn Xà Đoài nằm ở phía Tây, làng Xà Đông nằm ở phía Đông, tuy địa giới hành chính có thay đổi nhưng phong tục, tập quán cũng như đời sống của vùng quê này vẫn chung một nền nếp như xưa với những con người cần lao, giầu lòng yêu nước và giầu trí sáng tạo.
Là một sỹ quan cao cấp nay nghỉ hưu sống tại quê nhà, ông Lê Đăng Dần đã nhiều năm nghiên cứu, tìm hiểu và sưu tầm để viết xong cuốn sách “Làng Xà quê tôi” với nhiều tâm huyết.
Làng là mô hình một nước thu nhỏ với hệ thống chính trị là các dòng tộc và các bậc cao niên đến thiết chế theo tuổi tác là các hội đồng niên chia ra các chi, các giáp với những tập tục được thể chế hóa trong quy ước, hương ước lâu đời và được các thế hệ tự nguyện, tự giác chấp hành nhằm giải quyết và điều chỉnh các mối quan hệ trong lao động sản xuất, trong việc cưới, việc tang và lễ hội, đặc biệt là việc bảo vệ và vun đắp nghĩa xóm tình làng bền chặt, chung thủy, trước sau. Đó cũng chính là cốt cách của những người sinh ra và lớn lên ở làng, được sự giáo dục của gia đình, dòng họ và quan hệ xã hội của làng.
Về làng Đông ngắm con sông Cầu bình yên lơ thơ nước chảy mang theo những ký ức hào hùng của một vùng đất đầy ắp những khúc tráng ca. Nhìn làng xóm vẫn trầm tư như muôn năm cũ, những ngôi nhà quấn quýt lấy nhau, những con ngõ nhỏ chạy vòng quanh thấp thoáng dáng cụ già xiêu xiêu trong chiều chạng vạng. Những bờ tre xào xạc gió, hàng xoan hoa tím ngắt tháng giêng, những hồ ao rặng cúc tần, hàng cau và bao nhiêu thứ cỏ cây quen thộc. Làng là mái đình cong cong, là những cây cổ thụ rủ bóng bên đường. Làng là những làn khói lam chiều bảng lảng. Làng là nơi có những câu hát đồng dao trẻ nhỏ và bao nhiêu nỗi vui buồn của bao kiếp đời trầm tích để trở thành truyền thuyết và huyền thoại.
Cổng làng đã được xây lại nhưng vẫn giữ nếp xưa. Cái cổng vừa thể hiện sự trang nghiêm của một làng với thiết chế bền vững lâu đời, vừa có giá trị bảo vệ làng trong lịch sử nhiều biến động nhưng cũng là điểm nhấn để định vị cho vị trí của làng về phong thủy, trong ngoài của một cộng đồng dân cư. Đây cũng là nơi diễn ra nhiều sự kiện của làng và luôn để lại dấu ấn cho con người nơi đây.
Chợ làng vẫn họp từ sáng sớm đến chiều tối. Chợ cung cấp thực phẩm cho hơn 500 hộ gia đình nên luôn sôi động kẻ mua người bán, ai cũng vội vàng để còn dành thời gian ra đồng hay đi làm tại các khu công nghiệp. Muốn biết cuộc sống của người dân thế nào thì cứ ra chợ làng mà xem. Thịt, cá, rau xanh hay bất kể những vật dụng thiết yếu hàng ngày đều có ở chợ.
Đình làng xưa rất tráng lệ, trước đình có hồ bán nguyệt hướng ra cánh đồng rộng. Trong kháng chiến đình bị phá hủy hoàn toàn, năm 1989 đình được xây lại theo phong cách nhà cổ. Hiện đình Đông vẫn giữ được 15 đạo sắc phong từ thời Lê đến thời Nguyễn phong tặng cho thành hoàng làng là Thánh Tam Giang. Cùng với các sắc phong là các bức hoành phi, câu đối là những tư liệu Hán nôm quý. Trong Hậu cung có đặt bài vị, ngai thờ và tượng Đức thánh Ông và Đức thánh Bà, 2 sập gỗ chân quỳ, hương án, chóe thờ, ngựa thờ, kiệu Bát cống cổ có giá trị nghệ thuật lịch sử. Các tiết lệ của đình làng Đông tổ chức vào ngày 5 tháng giêng là ngày sinh của Đức Thánh và ngày 10-4 âm lịch cũng là ngày hóa của Thánh.
Cùng với đình làng, trên địa bàn làng Đông hiện còn nhiều công trình di tích lịch sử, trong số đó, đền thờ ông tổ nghề ép dầu là một ngôi đền còn khá nguyên vẹn về kiến trúc cũng như các đồ thờ tự bên trong.
Ông tổ nghề ép dầu làng Đông là cụ Nguyễn Quang Tán. Theo tài liệu cổ thì cụ Nguyễn Quang Tán là người xã Vọng Nguyệt, cụ sinh năm Nhâm Tuất (1502) đỗ Hội Nguyên Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức thứ 5 (1529) đời Mạc Đăng Dung. Cụ làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Lúc về hưu thấy dân làng hiền lành nghèo khổ, cụ đã ban phúc và dạy cho dân làng Đông nghề ép dầu. Sau này dân làng lập đền thờ và tôn cụ làm ông tổ nghề.
Làng Xà Đông là vùng cư dân đến khai khẩn, quần tụ sinh sống từ rất lâu đời với nhiều dòng tộc khác nhau nhưng đã hòa trộn và chắt lọc bao tinh hoa văn hóa của các vùng miền. Một trong những dòng họ nổi tiếng của làng Xà là họ Lê, dòng họ Lê ở Xà Đông có gốc tích từ thời Tiền Lê, là hậu duệ của Lê Hoàn đã định cư ở làng Đông từ hơn một nghìn năm trước.
Đất nước đã trải qua bao biến cố thăng trầm, thịnh suy. Trong những biến cố đó có bao dòng họ, gia đình đã phải trải qua sự ly tán để duy trì sự tồn vong. Họ Lê ở Xà Đông khi rời đất Thanh Hóa đã chọn làng Xà này là nơi để an cư, lạc nghiệp. Trải qua ngót nghìn năm, để đảm bảo được an toàn, tránh khỏi sự truy sát trong giai đoạn suy vong, lúc đầu chỉ là một gia đình nhỏ, sau đó các thế hệ tiếp theo đều phải chia nhỏ thành nhiều chi họ khác nhau tránh sự dòm ngó của các thế lực thù địch. Từ họ Lê Bá cành trưởng hay còn gọi là Lê Bá - anh, sau đó là chi họ Lê Bá em, rồi Lê Danh, Lê Đắc. Gần đây, khi đất nước thanh bình, cũng như nhiều dòng tộc khác, việc tìm lại cội nguồn của các chi họ thất lạc nhau đã được hợp lại sau hàng trăm năm ly tán. Họ Lê làng Xà Đông nay có thêm 2 chi họ nữa vẫn tồn tại ở cố hương Thanh Hóa đã tìm được nhau và trở thành họ Lê có sáu chi họ lấy ngôi nhà thờ họ ở làng Xà Đông làm trung đường thờ cúng tổ tiên. Năm 2012, ngôi nhà thờ họ Lê đã được công nhận là di tích lịch sử của tỉnh Bắc Ninh.
Họ Lê lục chi Tam Giang Yên Phong có lịch sử lâu đời. Hiện nay họ Lê ở thôn Đông có 221 hộ với gần 500 suất đinh chiếm trên 50% dân số của thôn. Họ Lê tự hào về truyền thống dòng tộc, đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của quê hương ngay từ khi chọn làng Đông là nơi sinh kế lâu dài ngót một nghìn năm qua. Kể từ khi kháng chiến chống Tống, chống quân Nguyên Mông và các cuộc chiến tranh giữ nước, con em dòng tộc họ Lê lục chi ở làng Đông luôn nêu cao tinh thần yêu nước, xả thân vì nền độc lập của dân tộc. Hiện nay, các chi họ Lê đều có nhà thờ tổ của mỗi chi.
Nhà thờ tổ chi Lê Đắc đến nay đã trải qua 18 đời, ngôi nhà thờ được trùng tu năm 1997.
Nhà thờ tổ chi họ Lê Bá cũng là một công trình được xây cất từ triều Nguyễn. Tổ chi Lê Bá tương truyền là một võ quan đỗ tới Tam trường có công cùng với tướng Phạm Bình Trọng dẹp loạn Nguyễn Hữu Cầu vào thời Lê trung hưng.
Trong số các di tích thuộc hệ thống nhà thờ họ Lê có ngôi nhà ở của chi họ Lê Đắc xây cất từ năm 1844 đến nay vẫn giữ được khá nguyên vẹn nét kiến trúc cổ. Đặc biệt đây còn là nơi được chọn làm địa điểm tổ chức Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ hai năm 1948.
Nếu như xã Tam Giang là địa phương nổi tiếng có nhiều người thành danh trong lực lượng vũ trang thì họ Lê lục chi là dòng họ có nhiều sĩ quan quân đội và công an nhất xã. Hiện tại họ Lê có 18 sĩ quan cấp thượng tá, đại tá đã nghỉ hưu tại quê hương và 70 sĩ quan trong đó có 20 người cấp tá đang công tác, 6 đại tá trong lực lượng công an, đặc biệt họ Lê lục chi có 2 Mẹ Việt Nam Anh hùng.
Họ Lê lục chi còn là dòng họ hiếu học với 1 người có học hàm giáo sư, 6 phó giáo sư, 15 tiến sĩ, 31 người có học vị thạc sĩ. Số con em trẻ tốt nghiệp đại học chưa thống kê đầy đủ có 54 người.
Làng là một thiết chế cộng đồng độc đáo của xã hội Việt Nam. Một thiết chế có sức sống trường tồn, có sức mạnh bất khả chiến bại trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt. Trong mỗi làng là các dòng tộc có quan hệ huyết thống được vun đắp qua thời gian để tạo nên truyền thống tương thân tương ái, gắn kết bền chặt. Lê gia vọng tộc là một dòng họ như vậy.
Ý kiến ()