Nằm ven đường 282, thôn Giữa là một bộ phận cư dân quần tụ cùng với hai cụm dân cư khác là làng Ngo Đường và làng Ngo Chợ nay có tên gọi là thôn Đường và thôn Yên Ngô. Có lẽ là nằm giữa hai thôn trên mà làng có tên là làng Giữa.
Xa xưa làng Ngo chỉ là một xóm nhỏ thuộc xã Bình Ngô, ngày nay cư dân của thôn Giữa phát triển lên đến 417 hộ với gần 1700 nhân khẩu. Nằm ở trung tâm của xã An Bình. Đường vào thôn Giữa xưa kia cũng chỉ là đường đất lầy lội, hầu hết các tuyến đường giao thông của xã An Bình nói chung và thôn Giữa đều được thảm bê tông. Đường sá rộng rãi, phong quang, nhà cửa mọc lên dọc theo các trục giao thông trong xã, trong làng chẳng khác gì phố xá. Quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ.
An Bình là vùng đất cổ, được hình thành từ thuở sơ khai. Đó là thời kỳ các Vua Hùng dựng nước và mở nước. Vùng đất này trước đây thuộc bộ lạc Dâu của bộ Vũ Ninh. Từ năm 43 đến năm 544 sau công nguyên, vùng đất này có tên gọi là Long Ngô Động thuộc đất Gia Định. Đến năm 1469 được gọi là xã Bình Ngô, tổng Bình Ngô, huyện Gia Định, phủ Thuận An. Sau cách mạng tháng 8-1945 xã Bình Ngô được đổi tên là xã An Bình và qua các lần sáp nhập từ huyện Gia Bình về huyện Gia Lương, đến năm 1980, An Bình chính thức chuyển về huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Đền Bình Ngô là một trong những công trình di tích lịch sử văn hoá quan trọng của An Bình. Đền nằm trên đất thôn Giữa được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18 thời Lê - Nguyễn và được Bộ Văn hóa thông tin cấp bằng công nhận là “Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 14 tháng 2 năm 1994”. Bản ngọc phả (thần phả, thần tích) về ngôi đền gồm 5.412 chữ Hán soạn thời Tự Đức cho chúng ta một cách nhận định khác lạ về thời Hùng Vương, đặc biệt là thống nhất 18 đời Hùng Vương khởi từ Kinh Dương Vương đến Hùng Duệ Vương. Chi tiết nỏ thần do Duệ Vương truyền cho Thục Vương là những chi tiết rất mới mẻ. Trong bản Ngọc phả có đoạn viết “khi Kinh Dương Vương lập nước đã có dân sẵn rồi, và có dân thì mới có vua, chẳng lẽ làm vua một mình. Làm vua thì có triều đình riêng, có quan văn võ. Trong số họ không phải ai cũng là hoàng tử con vua, mà là người được tuyển lựa từ dân lên giúp việc vua.
An Bình là vùng đất khoa bảng, cả xã có 6 vị đỗ đại khoa, trong đó có 2 vị đỗ Trạng nguyên, riêng thôn Giữa có một danh nhân thành đạt bằng con đường võ học.
Đó là danh tường thời Lê có tên là Ngọc Châu. Ông sinh vào năm Canh Tuất 1550 trong một gia đình có truyền thống võ nghệ. Vào năm Kỷ Mùi đời Lê Thái Tông phụng chỉ khâm sai đi dẹp loạn nhà Mạc.Trong một trận chiến ở Phú Xuân, ông một mình “nhất thân đỉnh mã” chém rơi đầu chỉ huy cấm quân nhà Mạc, bắt sống Mạc Đĩnh Dung, đại phá Hồng Lĩnh khôi phục quyền lực nhà Lê. Sau đó được vua Lê Thái Tông phong là “ Kiệt tiết tuyên lực công thần, trưởng tả đô đốc thượng trụ quốc” ban thưởng 500 mẫu ruộng, cai quản thượng Bồ Đề hạ Lục đầu giang tức là từ Gia Lâm đến Gia Bình hiện nay. Ông ban cho nhân dân An Bình 100 mẫu ruộng, thực hiện giảm thuế cho nhân dân trong khu vực cai quản. Danh tướng Ngọc Châu mất ngày 3 tháng 9 âm lịch năm Nhâm Tuất thọ 72 tuổi. Ông được thờ là hậu thần ở Đền Bình Ngô cùng với các vị tổ Hùng Vương. Trong nhà thờ còn có 2 đạo sắc phong, đặc biệt là bộ hoành phi câu đối do vua Lê ban tặng.
Nằm trên vùng đất mầu mỡ bậc nhất của huyện Thuận Thành, ngay từ thuở Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân - Âu Cơ, làng Giữa là nơi con người biết canh nông trị thuỷ để đồng đất năm nào cũng cho những vụ lúa bội thu. Làm ruộng vẫn là công việc truyền đời ở làng Giữa. Trải qua nhiều thế hệ cày sâu cuốc bẫm, hiện nay trên 60ha đất canh tác của thôn Giữa được khai thác bằng trồng trọt hiệu quả hơn. Thực hiện chủ trương đổi mới cơ cấu giống lúa, đến nay trên 70% diện tích ruộng của thôn Giữa được cấy các giống lúa lai năng suất lúa vụ chiêm đạt 57 tạ, vụ mùa đạt 63 tạ/ha, góp phần đáng kể trong việc tăng thu nhập bình quân của người dân.
Cùng với làm ruộng, đan lát là một nghề thủ công có từ lâu đời ở làng Giữa. Khi từ đồng ruộng trở về người nông dân lại bận rộn với công việc chẻ tre nứa để đan. Công việc này tận dụng được nhiều thời gian, tạo việc làm cho mọi lứa tuổi. Tuy thu nhập không cao nhưng cũng là yếu tố đảm bảo cho cuộc sống của mọi gia đình ở thôn Giữa luôn được cải thiện. Sáng ngoài đồng, tối tối lại ngồi đan. Người dân thôn Giữa thực sự là những con người hay lam hay làm, chịu thương chịu khó. Ngay cả giờ đây những đồ gia dụng bằng nhựa một thời chiếm chỗ của những đồ tre nứa nhưng đã lại phải nhường lại vị trí cho những chiếc rổ, rá, nong nia bằng tre. Các thế hệ người dân thôn Giữa thật hiếm có người không biết chẻ nan, đan rổ.
Làm đậu không phải nghề truyền thống của thôn Giữa nhưng hiện nay lại là một nghề quan trọng nhất đối với cuộc sống của thôn. Theo thống kê sơ bộ, hiện thôn có khoảng 500 lao động thoát ly đồng ruộng đi làm đậu ở khắp nơi trong cả nước. Thu nhập từ nghề làm đậu khá cao và ổn định. Hàng năm những lao động này tích luỹ được hàng trăm triệu đồng để đầu tư xây dựng nhà cửa, tham gia đóng góp cho công cuộc đổi mới của quê hương. Đây chính là nguồn lực để cho hàng chục ngôi nhà cao tầng mọc lên mỗi năm ở làng Giữa.
Buôn tàu bán bè không bằng có nghề trong tay. Những người đi làm đậu kiếm tiền về quê xây dựng nhà cửa lại tạo ra nhiều việc làm cho những người ở quê. Trong làng Giữa bây giờ có khá nhiều người có thêm nghề mới. Nghề mộc cũng là một nghề mới và có khá nhiều hộ làm nghề này. Nghề mộc xây dựng, nhất là nghề làm đồ thờ không chỉ phục vụ nhu cầu tại địa phương mà còn cung cấp cho nhiều nơi khác trong việc xây dựng đình, chùa hay các nhà thờ.
Chị Nguyễn Thị Tin là người phụ nữ làng Giữa được mọi người trong làng thán phục. Chồng chị không may qua đời để lại cho chị 2 đứa con nhỏ. Một mình chị lam làm nuôi con ăn học. Trong cái khó ló cái khôn, ban đầu chị bỏ tiền đầu tư một đầu máy xay sát gạo thấy làm ăn có lãi chị tiếp tục bỏ tiền mua thêm một đầu máy chất lượng cao hơn. Cứ thế, cơ sở xay sát gạo của chị ngày càng phát triển, mỗi năm sản xuất được hàng trăm tấn gạo các loại cung cấp cho những nơi làm bún, làm mì trong và ngoài tỉnh. Cơ sở xay sát của chị thường xuyên tạo việc làm cho 5 lao động là chị em phụ nữ trong thôn.
Trong mọi lĩnh vực của đời sống nông thôn làng Giữa, ở đâu ta cũng bắt gặp những con người cần cù và đầy sáng tạo trong lao động sản xuất, đóng góp công sức cho sự phát triển đi lên của một vùng quê giầu truyền thống yêu nước và khoa bảng.
Công ty may Tuấn Hải của vợ chồng anh chị Vương Văn Hải là một mẫu hình về sự năng động sáng tạo của thế hệ người dân làng Giữa hôm nay. Thoát ly gia đình năm 21 tuổi, anh Hải vào làm tại một cơ sở may mặc ở tỉnh Hải Dương. Từ một công nhân, anh không ngừng học hỏi về tay nghề, kỹ thuật, nuôi tham vọng trở thành ông chủ. Khi có đủ vốn liếng về trình độ tay nghề và kinh nghiệm tổ chức, điều hành sản xuất, hai vợ chồng anh quyết định về quê tận dụng khu đất trong vườn nhà để mở xưởng may. Từ hai bàn tay trắng, đến nay anh chị có một cơ ngơi làm ăn khá ổn định với hơn 70 công nhân chuyên may hàng gia công cho một công ty nước ngoài. Trong số lao động làm việc tại xưởng có khá nhiều lao động là người khuyết tật.
Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một nâng cao, là địa phương được chọn làm điểm về xây dựng mô hình nông thôn mới, làng Giữa nói riêng và An Bình nói chung trong 2 năm trở lại đây có sự thay đổi đáng kể.
Thôn Giữa có nhiều câu lạc bộ như câu lạc bộ Quan họ, CLB thể dục nhịp điệu nhưng CLB dưỡng sinh của Hội Người cao tuổi vẫn có nhiều thành viên tham gia nhất, hoạt động hiệu quả nhất trong việc chăm sóc người cao tuổi cũng như phát huy vai trò của những người cao tuổi trong công cuộc xây dựng và đổi mới của làng Ngo.
Ý kiến ()