Xuân Ổ ngày nay là một làng cổ nằm trên dải cao, cách trung tâm thành phố Bắc Ninh khoảng 4km về phía tây nam. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Xuân Ổ là một xã của tổng Khắc Niệm, huyện Võ Giàng gồm 2 thôn: Ứng Xá (Ó Chợ) và Ứng Trà ( Ó Chè) nay là 2 thôn Xuân Ổ A và Xuân Ổ B. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xã Xuân Ổ sáp nhập với xã Dương Ổ của huyện Yên Phong thành xã Xuân Dương thuộc huyện Yên Phong.
Năm 1948, xã Võ Cường được thành lập bao gồm 5 thôn: Xuân Ổ A, Xuân Ổ B, Khả Lễ, Bồ Sơn, Hoà Đình. Từ cuối năm 1949 đến năm 1957, Võ Cường thuộc thị xã Bắc Ninh rồi lại chuyển về huyện Võ Giàng. Từ năm 1962 đến năm 1985 Võ Cường thuộc huyện Tiên Du, Tiên Sơn, sau đó lại trực thuộc thị xã Bắc Ninh, nay là phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh.
Theo tư liệu ở địa phương thì làng Xuân Ổ xưa gọi là trang Ma Ổ (làng quê có nhiều quạ và dâu gai) nên gọi là làng Ó. Dấu vết vật chất còn lại cho thấy Xuân Ổ là vùng đất nằm trên bờ sông Tiêu Tương cổ có cửa sông đổ vào sông Ngũ Huyện Khê. Người dân Xuân Ổ xưa đã đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc bồi đắp sông Tiêu Tương tạo nên vùng đất bằng phẳng, màu mỡ như hiện nay. Cuộc thám sát, nghiên cứu, khai quật di chỉ Chùa Lái, Thùng Lò, của Viện Khảo cổ học và khoa Sử Đại học Tổng hợp Hà Nội tại làng Xuân Ổ vào những năm 1970 đã phát hiện cả một công xưởng chế tác đá, nhiều di vật cổ là những đồ sinh hoạt, những công cụ sản xuất, những đồ trang sức bằng đá, kỹ thuật chế tác tinh xảo thể hiện một trình độ cao, cùng nhiều hiện vật gốm có niên đại văn hoá Phùng Nguyên cách ngày nay trên 3.000 năm. Ở các tầng văn hoá trên là những mảnh gốm thời Bắc thuộc, chì lưới dọi se chỉ các mảnh gốm thời Lý, Trần, Lê… có thể nói một dòng văn hoá vật thể xuyên suốt chiều dài lịch sử, chứng tỏ một sự tồn tại và phát triển liên tục của con người trên đất Xuân Ổ trong suốt mấy nghìn năm. Các thế hệ người Xuân Ổ kế tiếp nhau khai đất, lập làng, tạo nên một làng quê trù phú.
Làng Xuân Ổ hiện có 980 hộ với 4.835 nhân khẩu, diện tích tự nhiên hơn 312 ha. Cư dân Xuân Ổ bao gồm các dòng họ Nguyễn Văn, Nguyễn Xuân, Nguyễn Thế, Nguyễn Khắc, Nguyễn Thực, Nguyễn Đức, Nguyễn Chiêu, họ Trần, họ Cao, họ Hoàng, các dòng họ đều đến đây từ lâu đời, cư trú phân đều ở các xóm ngõ trong làng: Ngõ Lài, ngõ Ngò, ngõ Ngang, ngõ Giữa, ngõ Diệc, ngõ Sân, ngõ Đông, ngõ Vát, ngõ Tây, ngõ Chợ.
Từ xưa đến nay nền tảng kinh tế chủ yếu của làng Xuân Ổ là nông nghiệp lúa nước, trồng trọt và chăn nuôi. Sau này phát triển nghề trồng rau và trồng hoa, tự cung tự cấp và cung cấp cho các vùng lân cận. Một động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Xuân Ổ phát triển là nghề thủ công, tiểu thủ công, thương mại buôn bán. Kết quả phát hiện khảo cổ học ở di chỉ Chùa Lái cho thấy cách đây trên 3.000 năm những cư dân trên đất Xuân Ổ đã có nghề chế tác đá điêu luyện và nghề đánh bắt cá. Việc phát hiện dọi se chỉ chứng tỏ nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải đã xuất hiện ở đây từ thời Hùng Vương và các giai đoạn sau. Theo truyền thuyết ở địa phương thì vào thời Trần có người con gái họ Lý tên là Huệ Nương đã về làng Ó dạy dân khai phá ruộng nương, trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, bà sinh con gái gọi là Quý Minh, người con gái tài sắc, giỏi giang võ nghệ cùng mẹ giúp dân phát triển nghề dệt lụa. Lụa Xuân Ổ đẹp nổi tiếng khắp vùng Kinh Bắc, sách Kinh Bắc phong thổ ký chép:
Lụa thời Nội Duệ Lũng Giang
Một làng Xuân Ổ thanh lương tiếng đồn
(Nghĩa là: Lũng Giang - Nội Duệ có nghề dệt lụa tơ tằm nhưng lụa Xuân Ổ mỏng, mát hơn)
Cũng theo Kinh Bắc phong thổ ký thì Xuân Ổ xưa còn có nghề làm giấy “Xuân Ổ có thứ giấy dó nhuộm các màu có thể dùng làm các thứ áo mã”.

Nền kinh tế phát triển hình thành nên những trung tâm thương mại - buôn bán sầm uất, thu hút các tư thương xa gần. Tại làng Xuân Ổ còn có các địa danh ngõ Lái, Giếng Lái, Chùa Lái, theo nhân dân địa phương và các nhà nghiên cứu thì đây là địa điểm cư trú của những tư thương chuyên buôn bán trên đất làng Xuân Ổ xưa từ những thế kỷ đầu Công Nguyên và tồn tại về sau, những người buôn bán theo hệ thống đường thuỷ, đường sông Cầu, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Tương và đường bộ. Chợ Xuân Ổ nổi tiếng là thời Lê, sách Kinh Bắc phong thổ ký chép: “Ở Xuân Ổ xế chiều họp chợ bán không thiếu thứ gì…”. Đặc biệt Xuân Ổ có chợ Âm Dương chuyên bán các sản phẩm của địa phương như vải lụa, giấy, hàng mã…
Là địa phương có lịch sử phát triển sớm, có bề dày lịch sử nên tổ chức làng xóm, dân cư ở Xuân Ổ khá ổn định, các phong tục tập quán, tục lệ ở đây khá chặt chẽ với những quy lệ do chính những chủ nhân của làng đặt ra, những người nông dân sống đoàn kết, hoà thuận cùng nhau xây dựng, kế thừa và phát triển những tục lệ, những giá trị văn hoá truyền thống của làng. Các mối quan hệ trong và ngoài cộng đồng được thiết lập chặt chẽ theo phong tục của Xứ Bắc xưa, ngoài mối quan hệ dòng tộc, làng xã, Xuân Ổ còn có mối quan hệ bền chặt trên bình diện cộng đồng mà các thành viên trong làng phải tuân theo. Đó là sự kết chạ lâu đời giữa làng Xuân Ổ với các làng tổng Nội Duệ xưa gồm: Đình Cả, Lộ Bao, Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, và làng Ném Thượng, tổng Khắc Niệm huyện Tiên Du. Mối quan hệ này được thể hiện đặc biệt trong những lúc 2 bên gặp hoạn nạn và trong các dịp hội lệ của làng.
Đình đền, chùa Xuân Ổ là một quần thể di tích toạ lạc trên khu đất đắc địa phía tây nam làng, bề thế, tôn nghiêm.
Đình làng Xuân Ổ có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh bao gồm 3 gian 2 chái tiền tế và hậu cung. Theo tài liệu văn bia hiện còn thì đình Xuân Ổ khởi dựng từ toà Kính thiên đài vào năm Dương Hoà thứ 4 - (1636), sau khi toà Kính thiên đài bị hỏng, dân làng tu tạo lại ở quy mô lớn hơn gọi là đình. Căn cứ vào nghệ thuật kiến trúc hiện còn và nghệ thuật chạm khắc trên bức cửa võng, bức cốn, đầu dư thì đình được tu sửa vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX), toà hậu cung được làm lại sau cuộc kháng chiến chống pháp (1954). Theo nhân dân địa phương thì các công trình tiền tế, 2 dãy dải vũ, nghi môn và toà hậu cung bị phá huỷ thời kỳ kháng chiến chống pháp.
Đền Xuân Ổ (Đền Thượng): Tương truyền ngôi đền được xây dựng ngay trên phần mộ của bà Quý Minh từ thời Trần, kết cấu mặt bằng kiến trúc hình chữ Nhị (=) toà tiền tế 5 gian, hậu cung 3 gian, theo bản thần tích viết bằng chữ Hán do Lễ Bộ thượng thư Đông, các Đại học sỹ Lê Tung phụng soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572). Quản giám bách thần tri điện hùng lĩnh thiểu khanh Nguyễn Hiền sao năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) và các đạo sắc phong thần ở đây, thì đền Xuân Ổ thờ bà Quý Minh - vị nữ tướng có công giúp dân làng phát triển kinh tế, giúp vua đánh giặc Nguyên giữ yên đất nước ở thời Trần.
Chùa Xuân Ổ (Hồng Phúc tự) theo truyền thuyết được xây dựng ngay sau khi bà Huệ Nương mất, lúc đầu chỉ là một ngôi nhà nhỏ trên phần mộ bà để thờ cúng, sau đó bà Quý Minh đã đặt ruộng hậu để thờ cúng thân mẫu và ngôi nhà được mở rộng dần, sau này phát triển thành chùa thờ phật và thờ hậu bà Huệ Nương.
Nằm giữa trung điểm của xứ Bắc ngàn năm văn hiến, người dân Xuân Ổ cần cù sáng tạo, thanh lịch duyên dáng và có truyền thống hiếu học từ xưa. Vào thời Lê - Mạc làng Xuân Ổ có ông Trần Đạo Tiềm đỗ tiến sỹ khoa Bính Thìn niên hiệu Quang Bảo thứ 3 (1556) và đã từng được vua cử đi xứ phương Bắc, giữ chức Tả thị Lang, tước Hưng Sơn Bá, phong Thượng thư, tước Hầu, ông là niềm tự hào cho cả làng, cả xã. Từ sau cách mạng Tháng Tám đến nay phát huy truyền thống quê hương làng Xuân Ổ có số lượng người đạt trình độ đại học tương đối cao.
Xuân Ổ là địa phương có truyền thống sinh hoạt văn hoá Quan họ từ lâu đời. Theo các nhà nghiên cứu văn hoá thì Xuân Ổ là một trong 49 làng Quan họ gốc của xứ Bắc xưa. Cũng như các làng Quan họ khác hát Quan họ, giao tiếp Quan họ đã trở thành một phong tục, một nét văn hoá đặc sắc được hình thành và phát triển lâu đời ở làng, đặc biệt trong các ngày lễ hội. Ngoài truyền thống hát quan họ xưa Xuân Ổ còn đội tuồng chèo, biểu diễn phục vụ nhân dân những ngày hội làng.
Lễ hội làng Xuân Ổ được tổ chức trọng thể vào các tháng Giêng hàng năm, bắt đầu từ ngày mồng 5 Tết là ngày hội chợ, mồng 6 hội chùa và từ ngày 8 đến ngày 11 tháng Giêng là ngày hội đình. Năm nào phong đăng hoà cốc thì hội được mở to hơn.
Chơi Quan họ đã trở thành một nét đẹp, một món ăn tinh thần không thể thiếu của người Xuân Ổ. Các thế hệ trong làng kế tiếp đã truyền dạy cho nhau về lối chơi Quan họ bằng cách truyền khẩu từng câu, từng lời, truyền dạy cách giao tiếp ứng xử của người Quan họ. Nhiều người đã có thời gian 70 - 80 năm chơi Quan họ và trở thành những nghệ nhân Quan họ, những Báu vật sống để cho Quan họ tồn tại và phát triển. Các nghệ nhân làng Xuân Ổ đã gắn cả cuộc đời với Quan họ, coi Quan họ là cuộc sống, là niềm vui, hiểu sâu sắc các triết lý về Quan họ. Trong quá trình lao động cần cù, sáng tạo, truyền dạy, nghệ nhân Quan họ làng Xuân Ổ còn tự sáng tác các bài Quan họ và đối đáp thành thạo trong các cuộc giao lưu với các bọn Quan họ của địa phương khác. Theo các nghệ nhân cao tuổi của làng Xuân Ổ thì bài bản sáng tác của làng là “Dọn quán bán hàng”. Xưa làng có hai bọn Quan họ, một bọn Quan họ nam một bọn Quan họ nữ. Quan họ Xuân ổ kết bạn với các bọn Quan họ ở Đào Xá, Thị Cầu, Hoài Thị.
Với truyền thống văn hoá đặc sắc, nền kinh tế ổn định lại nằm trong địa bàn phát triển mở rộng của thành phố Bắc Ninh, Xuân Ổ đang thực hiện đường lối của Đảng khai thác mọi tiềm năng sẵn có của địa phương, đa dạng hoá nền kinh tế, khôi phục, bảo tồn và phát triển những giá trị văn hoá của địa phương.
Làng Xuân Ổ hiện nay có 3 đội Quan họ: đội Quan họ của các cụ cao tuổi, đội dành cho lứa tuổi trung niên, thanh niên và đội Quan họ của các cháu thiếu niên, hoạt động dưới sự dẫn dắt của các nghệ nhân Quan họ. Nghệ nhân truyền cho một số người và những người này lại tiếp tục truyền dạy cho người khác, người biết nhiều truyền cho người biết ít. Hàng năm các đội Quan họ tham gia các cuộc thi hát đối đáp, liên hoan tiếng hát Quan họ giành cho người cao tuổi, thiếu nhi, tổ chức giao lưu với các đội văn nghệ của các làng xung quanh. Những hoạt động này nhằm góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, đồng thời là yếu tố quan trọng quyết định việc phục hồi, bảo tồn sinh hoạt văn hoá Quan họ ở địa phương. Hát Quan họ hiện nay vẫn là hoạt động tinh thần không thể thiếu của nhân dân Xuân Ổ.
Ý kiến ()