Tìm hiểu văn hóa truyền thống của một làng hay một vùng, người ta có nhiều cách. Một trong những cách có thể đạt hiệu quả mong muốn là tìm lý giải các phương diện thể hiện và đặc điểm của nền văn hóa ấy trong lịch sử. Để tìm ra sắc thái riêng của văn hóa truyền thống vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc, chúng tôi vận dụng cách làm này, hy vọng tìm thấy sự quan tâm của bạn đọc.
1. Các phương diện thể hiện của văn hóa truyền thống của vùng Bắc Ninh- Kinh Bắc
Theo chúng tôi, văn hóa truyền thống của vùng Bắc Ninh- Kinh Bắc được thể hiện trên một số phương diện sau:
Bắc Ninh là vùng đất có nhiều nghề thủ công cổ truyền nổi tiếng: đó là nghề chạm khắc đá ở làng Đại Bái (xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII, nay đã mất); nghề đúc đồng và gò giát đồng ở Đại Bái, Quảng Bố, Đề Cầu; nghề làm tranh dân gian ở Đông Hồ; nghề làm giấy dó ở Phong Khê, nghề làm bút mực ở Tư Thế (bút lông mèo để viết chữ Nho ngày xưa); nghề làm đồ gốm ở Phù Lãng, nghề chạm khắc gỗ ở Đồng Kỵ, Phù Khê; nghề sơn mài ở Đình Bảng; nghề ép dầu thắp ở Đại Đình, Bình Cầu; nghề làm kim khâu ở Đáp Cầu,... Chính tại các làng nghề thủ công này, nhiểu truyền thuyết, ca dao, phương ngôn và tín ngưỡng thờ tổ nghề đã được ra đời và bảo tồn đến ngày nay. Sự ra đời và bảo tồn những loại hình văn học dân gian bằng phương thức truyền miệng và tín ngưỡng thờ tổ nghề đó, một mặt là để ca ngợi cảnh đẹp và sự trù phú của làng, mặt khác có tác dụng quảng bá cho sản phẩm của làng đối với khách hàng gần xa, đồng thời thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân làng đối với tổ nghề.
Bắc Ninh là vùng đất từ xa xưa có nhiều phong tục đẹp (mỹ tục). Đó là tục kết chạ giữa các làng với nhau. Cơ sở của tục kết chạ giữa các cặp làng xuất phát từ nhiều lý do, nhưng có thể nhóm lại thành một số lý do sau: 1 là, hai làng có chung một dòng sông; 2 là, việc kết chạ giữa các làng là trên cơ sở có chung một cánh đồng; 3 là, việc kết chạ ở các làng có cơ sở là họ cùng thờ một vị Thành hoàng; 4 là, việc kết chạ giữa hai làng được thực hiện khi họ giúp nhau đánh cướp hay giúp nhau khắc phục hậu quả thiên tai hoặc những hoạn nạn, rủi ro; 5 là, việc kết chạ giữa các làng được thực hiện trên cơ sở các làng có cùng mối quan tâm, có cùng đặc điểm văn hoá nào đó.
Bắc Ninh là vùng đất có tín ngưỡng thờ tự rất lâu đời và rất sâu sắc. Đó là tín ngưỡng thờ Tổ tiên, thờ các biểu tượng thiêng (thần núi, thần sông, Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ,...), thờ Mẫu, thờ các vị Phật, Bồ tát, La hán, thờ Thành hoàng,... Từ tín ngưỡng thờ tự này, nhiều công trình kiến trúc xây dựng, nhiều tác phẩm điêu khắc, hội họa, thi ca có giá trị nghệ thuật cao được ra đời, tạo nên những địa chỉ văn hóa cho quê hương. Đặc biệt, chùa tháp, nếp sống thiền gia của nhiều vị cao tăng thạc đức và tín ngưỡng thờ tự của Phật giáo đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để góp phần làm nảy sinh dòng văn học- nghệ thuật Phật giáo rất độc đáo ở Việt Nam.
Bắc Ninh là vùng đất được mệnh danh là “vương quốc của lễ hội”. Theo thống kê của ngành Văn hóa thì tỉnh Bắc Ninh (theo địa giới hành chính hiện tại) có đến hơn 500 lễ hội lớn nhỏ. Ý nghĩa sâu sắc của lễ hội là đặc điểm của văn hóa truyền thống của làng, của vùng được thể hiện rất rõ.
Từ xa xưa, người dân vùng Kinh Bắc-Bắc Ninh đã sáng tạo, truyền dạy và gìn giữ được nhiều thể loại văn nghệ truyền thống rất phong phú và độc đáo. Đó là các loại ca dao, tục ngữ, phương ngôn, thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, giai thoại; đó là các loại dân ca, dân vũ, dân nhạc và hội họa dân gian,... Cũng như một số làng nghề, nhiều loại hình văn nghệ dân gian ở Bắc Ninh đã trở thành địa chỉ văn hóa gây cảm tình sâu đậm cho khách du lịch trong và ngoài nước, đó là dân ca Quan họ Bắc Ninh, múa rối Đồng Ngư, tranh dân gian Đông Hồ,... Cũng là tranh dân gian, nhưng tranh dân gian Hàng Trống (Hà Nội) và tranh dân gian của một số dân tộc ít người ở tỉnh miền núi phía Bắc có chủ đề và cách sử dụng chất liệu màu không có những đặc điểm như tranh dân gian Đông Hồ.
Văn hóa ẩm thực ở vùng Kinh Bắc-Bắc Ninh cũng là nét độc đáo của văn hóa truyền thống của người dân ở đây. Cho đến nay, đã có một số người viết về văn hóa ẩm thực của vùng đất Bắc Ninh, nhưng dường như các tác giả còn nặng về khảo tả mà ít nhấn mạnh đến ý nghĩa văn hóa và ý nghĩa nhân sinh của nó.
Truyền thống văn hóa ở vùng Kinh Bắc-Bắc Ninh còn được phản ánh trên lĩnh vực sáng tạo và vận dụng những tri thức dân gian để phục vụ đời sống hàng ngày của người dân. Đó là khả năng sáng tạo và sự vận dụng những tri thức dân gian vào chăn nuôi và gieo trồng; vào chữa bệnh, vào chế biến thức ăn,... Có thể nói, cho đến nay, đây là lĩnh vực vẫn có ít nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu.
Tại các làng cổ ở Bắc Ninh, người dân còn lưu giữ được hàng nghìn văn bia, hàng trăm minh chuông, thần tích, sắc phong, hàng nghìn bức hoành phi, câu đối, cuốn thư, hàng trăm cuốn địa bạ, đinh bạ, hương ước (khoán ước, khoán lệ), gia phả,... mà trên đó chứa đựng nhiều thông tin có giá trị lịch sử, giá trị văn hóa rất quý giá.
Bắc Ninh có truyền thống hiếu học và khoa bảng lâu đời. Trong số những nhà khoa bảng đó, nhiều vị đã trở thành những nhà giáo mẫu mực, những nhà ngoại giao tài ba, những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Truyền thống hiếu học và những đóng góp của các nhà khoa bảng đã góp phần hình thành nét văn hóa riêng cho vùng Kinh Bắc- Bắc Ninh.
Vấn đề giáp và cách đặt tên làng, xóm ngõ, cánh đồng, đường đống. Đó là những vấn đề mà chúng tôi thấy cần nghiên cứu sâu. Với cách đặt tên làng bằng chữ Nôm và chữ Hán, người đọc thấy được tên gọi của các đơn vị cộng cư này phản ánh truyền thống tư duy rất sinh động của người dân, đồng thời chúng ta cũng biết được rằng quá trình Hán hóa xuất hiện rất muộn so với những gì thuần Việt qua cách đặt tên xóm làng ở Bắc Ninh. Đây là phương diện cũng rất lý thú của văn hóa truyền thống ở Bắc Ninh.
2. Đặc điểm thể hiện của văn hóa truyền thống ở vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc
Chúng tôi cho rằng đây là vấn đề rất lý thú. Đặc điểm thể hiện làm nên diện mạo riêng có của vùng văn hóa. Chúng ta có thể dễ thấy đặc điểm riêng có của văn hóa truyền thống Kinh Bắc- Bắc Ninh là nét duyên dáng, đằm thắm trong các ca từ và giai điệu mượt mà, tha thiết trong các bài dân ca Quan họ; đó là cách têm trầu cánh phượng rất ấn tượng trong những dịp tiếp khách; đó là nghi lễ đón tiếp chạ anh chạ em giữa các làng kết chạ với nhau; đó là bí quyết sử dụng nguyên liệu tại chỗ của các nghệ nhân trong các làng nghề thủ công cổ truyền,...
Từ những phương diện thể hiện và một số đặc điểm trên, chúng tôi cho rằng trữ lượng văn hóa truyền thống ở vùng Kinh Bắc- Bắc Ninh là rất lớn mà kết quả sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu từ trước đến nay của giới folklor (văn hóa dân gian) trong và ngoài nước, mặc dù đã có nhiều đóng góp, nhưng vẫn chưa tương xứng với trữ lượng còn tồn tại ở dạng trầm tích ở vùng đất này. Bởi vậy, vấn đề đặt ra cho những nhà làm văn hóa Bắc Ninh đương đại là, bằng mọi nguồn lực, bằng mọi nỗ lực, bằng mọi cách, cần sưu tầm, khai thác, phổ biến, phát huy vốn văn hóa truyền thống rất phong phú và đa dạng của vùng văn hóa Kinh Bắc-Bắc Ninh một cách tốt nhất, hiệu quả nhất, nhằm góp phần xây dựng một tỉnh Bắc Ninh văn minh và giàu mạnh.
Ý kiến ()