“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Năm 1960, Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn đầu tay “Sau một buổi tập”. Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập kỷ (1960 - 1989), khép lại với chuyện vừa Phiên chợ Giát viết năm 1989, ông để lại 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình. Các tác phẩm chính của ông là Cửa sông (tiểu thuyết, 1966); Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970); Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972); Miền cháy (tiểu thuyết, 1977); Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983); Bến quê (truyện ngắn, 1985); Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987); Cỏ lau (truyện vừa, 1989)...
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu tiên trong tập “Bến quê”, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987. Tác phẩm còn được đưa vào tập truyện ngắn “Tình yêu sau chiến tranh” - tuyển tập truyện ngắn Việt Nam đương đại do hai nhà văn Wayne Karlin và Hồ Anh Thái chủ biên, được nhà xuất bản Curbstone ấn hành ở Hoa Kì (bằng tiếng Anh). Đây là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư - thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm 2007) cũng chọn và coi đây là tác phẩm hay nhất của nhà văn. Tác phẩm này đã được đưa vào giảng dạy ở chương trình chính thức Sách giáo khoa môn ngữ văn lớp 12 bắt đầu từ năm học 2008 - 2009 qua một đoạn trích phần giữa truyện.
Chiếc thuyền ngoài xa với phong cách tự sự - triết lý mang đậm phong cách của Nguyễn Minh Châu đã xây dựng một cốt truyện độc đáo sáng tạo, các nhân vật được khắc họa sâu sắc, sống động và chân thực.
Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù: “Ở đời cái gì cũng thế, con người bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái gì”. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ “vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu”, vùng biển này đã khiến nghệ sỹ Phùng “trở nên ngây ngất vào mỗi buổi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà đượm một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại”. Hai ngày đầu, suýt nữa Phùng đã quyết định đưa vào tờ lịch tháng bảy khung cảnh người ta đẩy một chiếc thuyền xuống nước. Nhưng anh vội thôi ngay cảnh đẩy thuyền đầy không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng. Và rồi Phùng quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy của năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc nhập nhoạng sáng. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào. Sau một tuần lễ, vào một buổi sáng khi “Đàng đông đã sáng trắng. Trên một nửa vòm trời sao đã lặn hết” Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là một vẻ đẹp mà cả đời bấm máy của Phùng có lẽ chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần: “Trong giây phút bối rối, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo cái đẹp và những giá trị cuộc sống.
Nhưng tác phẩm không dừng lại ở đó, Bức tranh khiến Phùng ngây ngất và có thể sẽ kéo dài mãi cảm giác sung sướng đó nếu như chiếc thuyền ấy mãi ở ngoài xa. Người nghệ sĩ Phùng bàng hoàng khi phát hiện ra sự thật của cuộc sống bên trong bức ảnh tuyệt mĩ của “Chiếc thuyền ngoài xa”. Cảm xúc của Phùng bị dập tắt, bức tranh Phùng vừa thấy cũng tan vỡ bởi sự thật của cuộc đời trần trụi. Bước ra từ chiếc thuyền là một người đàn bà mệt mỏi, cam chịu. Cũng từ đây người đàn bà đã đến với người đọc bằng xương bằng thịt, bằng nghiệt ngã cay đắng và bằng nhân hậu bao dung. Chị ấn tượng với người đọc bởi ngoại hình khó coi “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Ở chị còn phơi bày cả sự nghèo đói, nhếch nhác “Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. Mới nhìn, người đọc thấy ở chị vẻ cam chịu của con người quen với nhọc nhằn lam lũ cho nên chị chẳng còn quan tâm gì đến bản thân nữa, ngay cả ý định “Đưa cánh tay lên có lẽ định gãi hay xõa lại mái tóc” cũng tan mau “chị lại buông thõng xuống”. Chồng chị - một gã đàn ông vũ phu “đầu tổ quạ”, “đôi mắt độc dữ dấu dưới đôi lông mày cháy nắng”. Lão đã hành hạ như trút hết tất cả hận thù, cay đắng, nghiệt ngã lên lưng chị bằng một trận mưa dây thắt lưng của lính Ngụy ngày xưa: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng … lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két..”. Nhưng người đàn bà lại gồng mình gánh chịu mà không hề trốn chạy, kêu la, cũng không tìm cách chống trả, làm cho trái tim Phùng và người đọc thắt lại vì căm phẫn và xót xa.
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” còn có một sự thật trớ trêu, cay đắng nữa đó là việc coi nhau như kẻ thù của lão làng chài và thằng Phác con trai lão: “Thằng bé chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng… lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông... liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”. Thằng Phác nhìn cha nó không phải bằng con mắt đầy yêu thương và kính trọng mà lại căm hận như kẻ thù. Không trực tiếp lên án, phê phán nhưng NMC đã phơi bày ra trước mắt người đọc tệ nạn bạo lực gia đình đang diễn ra khá nhiều trong cuộc sống mà người phụ nữ và những đứa trẻ phải gánh chịu. “Chiếc thuyền ngoài xa” khiến người đọc thổn thức bởi sự hi sinh thầm lặng của người phụ nữ Việt luôn luôn vun vén cho gia đình; nhưng sâu thẳm trong tiềm thức không chỉ là sự hi sinh của người phụ nữ mà còn là trách nhiệm, là tình yêu thiêng liêng đối với gia đình đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh mọi người. Những đứa trẻ sống trong hoàn cảnh bạo lực gia đình sau này lớn lên sẽ ra sao? Liệu chúng có đi theo lối mòn ấy hay không?
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, người đọc hầu như không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu khi thì gọi chị là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn nghèo ngôn ngữ đến mức không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì “chị” là một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung và giàu đức hi sinh. Người đàn bà ấy thật đáng nhận được sự chia sẻ cảm thông của mọi người. Khi ở tòa án chị mới đầu là người phụ nữ rụt rè, sợ hãi nhưng lại khiến người đọc phải bất ngờ khi mạnh mẽ tuyên bố không bỏ lão chồng chị “Con lạy quý tòa. Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thương vô bờ đối với những đứa con “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng, phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Và từ đây, bộ mặt xấu xí của người chồng cũng bị bóc tách khiến người đọc thấy được lí do bị tha hóa của lão. Lão đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành nhưng những khó khăn, khốn khó của cuộc sống đã khiến lão trở lên cộc cằn” nay là một người chồng độc ác. Ông ta vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình. Giống như bao gia đình khác ở vùng biển này, họ phải đương đầu với những khắc nghiệt của tự nhiên để sinh tồn nhưng dù khó khăn đến thế nào họ cũng vẫn không muốn lên bờ, vẫn bám trụ với biển cả đại dương.
Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống hòa bình, tốt đẹp. Nhưng hiện thực cuộc sống vẫn luôn tồn tại những góc khuất. Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công sáng tạo bỗng bị phá hỏng. Tấm ảnh về chiếc thuyền thật tuyệt diệu nhưng cuộc sống đích thực của gia đình làng chài trên chiếc thuyền ấy lại hoàn toàn xấu xí. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: “Không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người”.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là tác phẩm chứa đầy sự nghịch lý, thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người mà những người nghệ sĩ cần phải có cái nhìn đa chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống bởi “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao).
Ý kiến ()