Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của thi sĩ Hoàng Cầm có câu: Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Sông Đuống chỉ là con sông trung bình nhỏ trên miền Bắc đất nước ta, nhưng hình như nó đã chảy trong hồn nhiều thế hệ khắp từ Bắc tới Nam nhiều thập kỷ nay. Không hiểu nhờ câu thơ đó mà sông Đuống nổi tiếng hay chính con sông ấy đã làm cho Hoàng Cầm nổi tiếng, có hàng triệu người biết đến một cách ưu ái, mặn nồng như cái duyên văn tự và lòng yêu đất nước.
Lại nữa, có người Việt Nam nào lại chưa từng nghe một vài làn điệu dân ca Quan họ, dù bao năm sống trong trời đất, họ chưa từng nghe một đoạn nhạc Rốc, Ráp nào xa lạ của thế giới. Mà Quan họ thì chỉ có Bắc Ninh mới sản sinh ra, mới có, mới vương vít hồn người, mới xao xuyến những trái tim đa cảm, mới nâng con người lên mà vượt qua mưa nắng đa đoan để biết yêu nhau trong tơ vò trăm mối, trong thiết tha quấn quýt gái trai.
Nếu Nam Bộ có đờn ca tài tử và 6 câu hát vọng cổ thoát thai từ bài “Dạ cổ hoài Lang” của nghệ sĩ tài danh Sáu Lầu, nếu Thái Bình có hát chèo ngả nghiêng cả mái đình và mưa gió những đêm xuân, nếu Lỗ Khê (và nhiều nơi khác) có hát cửa đình là ca trù làm ông quan thượng thư Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ cũng phải nghiêng tay cầm chầu tom chát khi nghe câu hát: Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng…
Nếu miền bắc Trung bộ có hát dặm, hát phường vải, nếu sông Hương núi Ngự của Thuận Hóa, Phú Xuân, nơi nàng công chúa Huyền Trân dám hy sinh thân mình để tránh một cuộc chiến tranh tương tàn đẫm máu, có những điệu hò Mái nhì, Mái đẩy làm lòng người cũng phải bập bềnh man mác theo con nước… thì quan họ Bắc Ninh mang khuôn mặt búp sen của cô hàng xén bên bờ sông Đuống, nghìn năm vẫn trẻ và chắc vạn năm vẫn trẻ, mấy trăm làn điệu “vang, rền, nền, nảy” này của nửa trăm làng quê Bắc Ninh có lẽ phải nói như Nguyễn Du:
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai…
Lạ thế đấy, có một sự tự sẻ mình ra thành muôn triệu, nhưng càng sẻ ra càng lớn lên, càng mạnh ra, càng nức tiếng mà không hề nhỏ đi, không hề mất mát đi chút nào. Có lẽ điều lạ lùng này chỉ có văn hóa mới có, nhất là văn hóa một vùng đất cổ Bắc Ninh của xứ Kinh Bắc ngàn năm mới có. Có phải không Bắc Ninh ơi?
Tháng Giêng mùa Lễ hội, ai qua sông Cái để đằm mình vào đêm quan họ tối ngày 12, sẽ lạc lối không có đường về trong gió lạnh và trăng tà, trong mảnh chiếu hoa của tàn canh khúc ca tình ái thanh cao lúng liếng mắt nhìn và miếng trầu thắm đỏ… Đem theo cái ngây ngất đầy chất Bắc Ninh ấy vào ngày 13 lên đồi Lim nghe liền anh liền chị giao duyên cứ như lời tim bật ra chỉ có một lần này kỳ ngộ, nếu không nói thì muôn đời sau không còn duyên cớ. Nó thiết tha đến nỗi ta có thể bỏ lại cái thân xác nơi trần gian cho hồn vi vút với câu ca.
Ta tạm quên con đường số Một lên Bắc về Nam có Lũng Cú, Cà Mau, mà rẽ vào đây, khúc cuối cùng của con sông tình ái Tiêu Tương có tình sử giang đầu đẫm đầy thương nhớ giữa người nghệ sĩ Trương Chi và nàng mỹ nhân trong lầu Tây cô quạnh.
Con sông đã chảy hết ngọn nguồn vào lịch sử, nay con sóng cuối cùng còn vỗ bên ngôi đình nổi tiếng của làng Đình Bảng. Ngay nơi đây có gia đình một phụ nữ tài hoa khéo léo là bà Lụa ghép tên với con gái là cô Xuân để khỏi trùng tên với bất cứ ai. Chỉ với ít bột nếp, ít đu đủ xanh nạo nhỏ cùng màu hoàng yến quả hoang dã dành dành mà làm ra thứ bánh quê hương vừa mộc mạc vừa cao sang: Bánh xu xê, còn gọi là bánh phu thê, tức bánh vợ chồng, cứ cặp đôi và rong chơi với mọi miền non nước. Nó đã thành thứ làm đồ lễ trong đám cưới cùng với bánh cốm Nguyên Ninh, Hà Nội. Nhớ có một năm vì yêu quý quê vợ và cũng là yêu quý bạn bè, nghệ sĩ nhiếp ảnh Đinh Quang Thành đã đặt 100 cặp bánh xu xê đem làm quà tết biếu bạn. Chiều ba mươi, trời đổ gió mùa, sương và mưa bàng bạc khắp một vùng châu thổ từ Thăng Long đến Kinh Bắc, anh Thành phải làm thân con chim én, mang bánh làm tin mùa xuân đến khắp lượt bạn bè. Và tết ấy, anh bị cảm lạnh, nằm gần hết nửa mùa xuân nhưng vẫn vui vì có gần một trăm gia đình có mùa xuân Bắc Ninh chung tết với mình.
Đình Bảng đâu chỉ có bánh xu xê màu tơ vàng chỉ thắm, mà còn khu Đền Đô còn gọi là đền thờ Lý Bát Đế đầy u tịch và thiêng liêng, có nhà bảo tàng, có cầu cong soi bóng nước, có thủy đình, có cổ thụ trăm năm, nơi thờ tám vị hoàng đế triều Lý. Chỉ tiếc một điều, vị vua cuối cùng của triều đại này không được thờ chung, không được đứng ngang hàng với các vị tiền đế, với lý do bà đã làm mất ngôi vua và triều đại của mình.
Ngày nay chúng ta tỉnh táo và thông thoáng hơn. Đó là vấn đề của thời đại, sao lại nỡ trách người con gái mới 8 tuổi đầu, buộc phải nhường ngôi cho chồng (biết đâu, trong đó cũng có cả tình yêu-nếu thế thì Lý Chiêu Hoàng đúng là mang cốt cách một liền chị quan họ si tình đắm đuối).
Còn có một Liền chị khác, chúng ta chưa biết tên bà là gì, nhưng bà đã lấy ông quan Tể tướng và sinh ra cậu Chiêu Bẩy, sau trở thành thi hào dân tộc Nguyễn Du. Sinh thời, đã bao nhiêu lần chú bé và anh thanh niên Nguyễn Du ấy đi đò từ Thăng Long sang Kinh Bắc thăm quê mẹ và những câu thơ nào trong Truyện Kiều là hình ảnh của một Bắc Ninh trong trái tim thi sĩ?
Vẫn còn đây ngôi mộ cỏ vàng ấy những chiều thu và nảy lộc với mưa xuân, đó là ông hầu tước Ôn Như Nguyễn Gia Thiều, tác giả khúc ngâm người cung nữ oán giận cuộc đời trớ trêu khiến duyên phận lỡ làng, lẻ loi một kiếp, dù căn phòng đã phải sát thêm bột hồ tiêu mà cái lạnh vẫn toát ra từ bên trong khi má phấn môi hồng phôi pha lẻ bóng.
Văn miếu tỉnh Bắc Ninh không hiểu có ghi tên Nguyễn Du và Nguyễn Gia Thiều không, những con người làm vẻ vang cho quê hương và thời đại của mình? Nhưng Văn Miếu Bắc Ninh vẫn là công trình đồ sộ, đẹp đẽ, xứng đáng với tầm vóc một vùng văn hóa. Từ ngày Hà Nội làm mất đi một vùng hoa đào Nhật Tân thì cây hoa đào đã có lịch sử hơn 500 năm lại tự mình tìm đường mà sinh sôi nếp sống. Cây đào không chết. Chất văn văn hóa dân tộc không chết. Mùa xuân không chết. Câu thơ cổ đã nghìn năm tuổi lại hồi sinh giữa Bắc Ninh, quanh khu vực Văn Miếu, cuối mùa đông đã thấy hoa cười cùng gió và gương mặt người trồng đào gian lao với sắc hoa dân tộc.
Đào hoa y cựu tiếu đông phong (thơ Thôi Hộ) mà Nguyễn Du thoát ý thành câu thơ nổi tiếng:
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Đã mấy tết nay, bao nhiêu gia đình người Bắc Ninh đã có bình hoa đào tươi mởn đón xuân trong thời đại công nghiệp nhiều khu công nghiệp xuất hiện, không còn phải sang tận Thăng Long mới “tậu” được cành đào đầy kỳ khu mưa gió và đã có bao nhiêu người Hà Nội du xuân, sang sông Đuống mà “cưới” một ánh đào tươi như má cô gái Nam Trang trong thơ Thôi Hộ.
Cành đào là hoa thanh tao, dù không thể bằng hoa sen, nhưng cũng có thể cắm trên bàn thờ Phật ngay nơi chùa Dâu mới trùng tu đầy công phu như một kỳ tích.
Những địa danh như chùa Dâu với tháp Hòa Phong 7 tầng nhưng thời gian tàn phá chỉ còn ba tầng, vững vàng như một biểu tượng thi gan cùng bão táp khi ta có lòng thiền. Những ngàn dâu xanh ngắt một màu đã lùi vào quá vãng, ngày nay nhiều ngôi nhà cao đã mọc lên, chúng ta đang ra sức gìn giữ thuần phong để cơ chế thị trường không lấn át. Chùa Bút Tháp đứng giữa đồng bằng ngô lúa, ngọn tháp khiêm nhường mà gạch đá luôn lấp lánh lan tỏa một vùng đọng lại thành hồn xứ sở.
Chợt nhớ mối hàm oan của một người Bắc Ninh đã nghìn năm mới được giải oan. Chân núi Thiên Thai có ngôi miếu nhỏ. Một con rồng đá mới được khai quật từ lòng sâu sỏi đá gập ghềnh. Có lẽ trên đất nước ta nơi nào cũng có hình tượng con rồng, nhưng không nơi nào có một con rồng như trong ngôi miếu nhỏ này. Phải oan khuất lắm, phải trí tuệ lắm, phải nhiều thời gian suy ngẫm về lẽ cuộc đời lắm mới có con rồng tự ngoạm vào thân mình như thế. Đầu con rồng không vươn ra ngoài, mà cong mình, uốn khúc lưng, tự cắn hàm răng vào thân xác mình. Lâu lắm rồi, nên máu đã khô đi, nhưng ta tưởng như dòng máu đã tuôn tràn trề trong lịch sử ông Thái sư khai khoa Lê Văn Thịnh, một đại thần triều Lý bị vu cho tội giết vua, phải đi đầy lên miền núi, khi được tha, về gần đến làng Đông Cứu thì gục xuống giữa quê hương. Phải nghìn năm sau mới được giải oan. Vụ này có giống vụ án Lệ Chi Viên khiến ức Trai Nguyễn Trãi bị thảm sầu khốc liệt. Nay ta chiêm ngưỡng con rồng đá ấy mà nghĩ đến bao điều phải trái trên hành trình nhân thế. Làm việc hay không làm việc? Thẳng ngay và gian trá. Luật pháp và quyền lực. Kiếp người với cõi thế. Đến nay, hồn oan Lê Văn Thịnh còn đọng lại gì trong thân con rồng đã tự cắn thân mình đến máu chảy đầm đìa trang sách thiên thu…
Tết Nguyên Đán là vui, ngon và phải đẹp. Chính Bắc Ninh đã bao đời cung cấp cái đẹp ấy cho trăm vùng đất nước vào dịp Tết. Đó là sắc màu tươi rói, là ảnh hình quen thuộc, là hy vọng đông vui… trong tranh Đông Hồ, theo sông Đuống đi về muôn ngả. Cổng nhà ai chả có bức tranh Tiến Tài, Tiến Lộc. Vách nhà ai chả có con lợn độc lợn đàn. Hiên nhà ai chả có bức tranh gà mã tía, cái đuôi sặc sỡ, con mắt tròn cứ như muốn gáy lên khi nền mây phô chiếc dẻ quạt màu tím vắt ngang bầu trời.
Và tình tứ làm sao, cô gái căng váy để hứng quả dừa từ cành cao thả xuống, để lộ đôi đùi non trắng nõn, trong khi anh chàng hai vợ, xảy ra cuộc đánh ghen tan tác cửa nhà, ngơ ngác trẻ thơ… Tranh Đông Hồ mang hồn văn hóa Bắc Ninh đã bừng lên vậy. Người viết bài này có một thời thơ ấu sống gần với đất Bắc Ninh. Đó là vùng Cẩm Giàng của xứ Hải Đông, hàng xóm với huyện Lương Tài, hai nơi chỉ cách nhau mấy sải sông dào và nửa tiếng gà gáy sớm. Con sông ấy chảy qua một quãng làng Sen nên gọi là sông Sen. Những tên làng nôm na như tên cô gái làng: Cô Mơ, cô Mận, cô Lý, cái Gái, cái Nhớn… đó là những làng Nắp, làng Thau, làng Quàn, làng Vệ, làng Rợ, làng Nê, làng Vó, làng Đọ… Hơn sáu mươi năm đã trôi qua, nhưng những bậc đá gập ghềnh khúc khuỷu của sườn núi Thiên Thai vẫn hiện về như giấc mơ đẹp khi nhớ lại tuổi thơ, rong chơi lên ngọn núi, vào viếng cảnh chùa, lăng ẩn mình dưới bóng thông cành mít.
Một ngọn núi đột khởi nhô lên giữa đồng bằng châu thổ, kế bên con sông Đuống mộng mơ, mà gần đâu đây, những xóm làng xanh um bóng tre và những ngôi chợ đông vui tấp nập đầy tiếng nói cười là chợ Hồ, chợ Sủi, chợ Thứa, chợ Bưởi, chợ Keo… Cũng không thể quên khi đi qua làng Bưởi có tên còn nôm na như gộc tre, đống rạ. Đó là làng Bưởi Nồi vì có nghề gò và đúc nồi đồng. Ngay bên cạnh chợ, còn một khuôn giếng khơi trong vắt, thành giếng không là đá hộc hay gạch vồ, mà làm bằng từng chiếc cối đá xếp lên nhau. Bờ giếng còn in vết đá lõm là chân Thánh Gióng quỳ xuống để uống nước và một vết tròn là chiếc roi tre chống xuống. Không ai đem khoa học khô cứng vào đây để xem ngày Thành Gióng đánh giặc có đi qua đây không, có uống nước này không? Bao nhiêu thế kỷ, bao nhiêu mây trắng đã bay, bao nhiêu đời tre nối tiếp nhau, tre làm nhà, làm vó bè, làm bắp cày, làm giường ngủ, làm lạt buộc bức vách… Thánh Gióng để lại cho chúng ta non nước thiêng liêng này. Người còn để lại bài học không màng danh lợi và quyền lực, còn để lại dấu tích đánh giặc cho dân nhưng chỉ uống nước của trời mà làng Đại Bái tức Bưởi Nồi này có vinh dự lưu giữ cho cả nước.
Vùng Lang Tài, Gia Bình ngày ấy nay đã phát triển, tuy không được nhanh lắm như nhiều nơi khác. Tuy nhiên nghĩ và nhớ về Bắc Ninh không phải là nhà máy hay siêu thị mua bán ồn ào (dù vẫn có) mà nghĩ về một vùng văn hóa truyền thống đã nghìn năm truyền giữ từ một áng văn, một nếp nghĩ, một dáng người…
Mùa xuân lại đến, mang sức sống mới về cho Bắc Ninh. Theo hơi mưa xuân ấm áp và khí xuân dương hòa, mong sao, hội Lim này lại được trở về dòng sông Quan họ, nghe khúc ca thấm đẫm tình người và văn hóa…
Đầu xuân Kỷ Sửu
Băng Sơn
Ý kiến ()