Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là chủ trương đúng đắn của tỉnh nhằm tạo diện mạo mới và thu hẹp khoảng cách với thành thị trong phát triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, việc đầu tư dàn trải của cấp xã, thị trấn trên địa bàn huyện Thuận Thành đã gây nên số nợ xây dựng cơ bản (XDCB) gần 46, 2 tỷ đồng. Giải quyết bài toán nợ XDCB đang là vấn đề nan giải không chỉ với chính quyền các xã, thị trấn mà cả cấp huyện, tỉnh.
Thu ngân sách xã 20 năm mới đủ trả nợ
Song Hồ không chỉ nổi tiếng với dòng tranh dân gian Đông Hồ, nơi đây còn được biết đến qua những thành tích nổi bật của ngành giáo dục và tốc độ phát triển thương mại - dich vu seo vụ. Chủ trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống hạ tầng đã góp phần không nhỏ thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Trong khoảng thời gian 4 năm (2004- 2007) xã tiến hành đầu tư hàng chục công trình xây dựng. Hầu hết các công trình thuộc lĩnh vực giao thông nông thôn, giáo dục, văn hoá. Các dự án đều phát huy được hiệu quả và tính thiết thực trong việc nâng cao điều kiện lao động, sinh hoạt của người dân. Tuy vậy, sự đầu tư liên tục trong thời gian ngắn cũng có hệ luỵ, đó là nguồn lực của địa phương chưa đáp ứng đủ nhu cầu kiện toàn hệ thống cơ sở vật chất. Tính trong 4 năm đó, xã có đến 20 công trình còn nợ đọng. Đáng chú ý là 18/20 công trình xã triển khai đều nằm trong khung được hưởng hỗ trợ của tỉnh và chỉ có 2 công trình nâng cấp sân vận động và phụ trợ nhà văn hoá thôn Đông Khê là không thuộc diện được hưởng hỗ trợ. Trong tổng số nợ 2,686 tỷ đồng, tỉnh hỗ trợ 1,075 tỷ đồng, phần còn lại phải trông vào ngân sách xã.
Không có nhiều lợi thế cũng như tiềm năng phát triển kinh tế như Song Hồ, nhưng xã Ngũ Thái lại nợ XDCB khá lớn, tới 5,214 tỷ đồng. Số nợ trên nảy sinh từ việc đầu tư cho 8 công trình. Những con số này cho thấy, nguồn ngân sách của địa phương dành cho đầu tư là rất thấp: 8 công trình với tổng giá trị xây lắp là 6,515 tỷ đồng thì địa phương mới chỉ trả được 1,3 tỷ đồng (trong đó nhà nước đã hỗ trợ được 670 triệu), còn lại nợ 5,214 tỷ đồng (nguồn ngân sách của tỉnh hỗ trợ 699,53 triệu đồng). Cán bộ tài chính xã - Nguyễn Hữu Anh cho biết: “Nguồn ngân sách xã hàng năm chỉ đạt khoảng 200 triệu đồng là nhiều”. Thử làm phép toán đơn giản đủ thấy Ngũ Thái phải thu ngân sách trong 20 năm mới đủ trả nợ XDCB. Đó là chỉ dành riêng cho việc trả nợ, nếu sử dụng vào mục đích khác nữa thì không biết đến bao giờ mới xong…
Trả nợ - Chỉ trông chờ vào đất
Tìm nguyên nhân và lời giải của bài toán nợ đọng XDCB cấp xã thấy rõ thực trạng trên xuất phát từ tâm lý chủ quan trông chờ vào nguồn vốn từ quỹ đất của hầu hết các địa phương. Do đó có những quyết định đầu tư xây dựng vượt quá khả năng cân đối của nguồn ngân sách địa phương. Đơn cử, xã Ninh Xá có 13 công trình hạ tầng với tổng giá trị xây lắp 12,198 tỷ đồng, trừ phần hỗ trợ của tỉnh trong tổng số nợ 5,922 tỷ đồng thì ngân sách phải đảm nhận 4,713 tỷ đồng. Phó Chủ tịch xã Nguyễn Xuân Cự cho rằng: “Cơ sở để địa phương triển khai dựa trên nguồn vốn thu từ việc đấu thầu ao hồ, nhân dân đóng góp và 3 hồ sơ giao đất (đất giãn dân), Quyết định 139B năm 2007 của UBND huyện cho phép quy hoạch gần 9.000 m2 đất tạo vốn…”. Hay Trạm Lộ cũng đang chờ vào việc tổ chức đấu giá đất và lập thủ tục xin cấp khoảng 2 ha đất giãn dân tạo kinh phí. Ngũ Thái cũng chỉ còn biết chờ khi nào có chứng chỉ quy hoạch xây dựng sẽ triển khai đấu giá đất tạo ngân sách… Đại đa số các xã, thị trấn khi thực hiện dự án đều ghi nguồn vốn từ sự hỗ trợ của tỉnh, ngân sách xã, nhân dân đóng góp và nguồn khác. Thực tế trong 69,824 tỷ đồng đã thanh toán/tổng giá trị xây lắp 116, 017 tỷ đồng của 18 xã, thị trấn thì nguồn đóng góp và nguồn khác chỉ chiếm chưa đầy 10 tỷ, nghĩa là chỉ hơn 14,3%. Tương tự trong 46,193 tỷ đồng nợ đọng thì nguồn ngân sách xã là 32,990 tỷ đồng (chiếm hơn 71,4%), nguồn đóng góp và nguồn khác không thấy nêu ra. Như vậy, số nợ đọng chủ yếu thuộc ngân sách xã, mà ngân sách xã chỉ có thể trông vào các dự án đấu giá quyền sử dụng đất. Trong khi đó các dự án này ở các địa phương lại chưa thể triển khai do nhiều yếu tố chi phối. Những dự án đất giãn dân thì giá bán thường thấp, vì vậy phần chênh lệch để tạo vốn không đáng kể. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nợ đọng XDCB. Thêm nữa là sự cam kết ứng vốn một cách vô tư của nhà thầu đã tạo nên “lực huých” để các địa phương mạnh dạn thực hiện dự án. Khi triển khai, phần lớn các địa phương đều đưa ra điều kiện khi nào có vốn mới trả và được các nhà thầu chấp thuận. Vậy là cứ xây, cứ nợ. Nguyên nhân này làm nảy sinh một vấn đề tế nhị và cũng là cách để nhiều địa phương không bị đòi nợ - đó là chậm đưa những công trình đã hoàn thành vào quyết toán, thậm chí tạo “thiếu sót” trong hồ sơ để trì hoãn việc thẩm định quyết toán. Bởi nếu quyết toán sẽ phải thanh lý hợp đồng và thanh toán giá trị xây lắp hoặc ít nhất cũng phải “gánh lãi” cho nhà thầu vì chưa trả được nợ. Đây có thể là câu trả lời cho vấn đề chậm thanh quyết toán các công trình xây dựng ở cấp cơ sở.
Tính đến tháng 8- 2008, thời điểm huyện Thuận Thành thống kê báo cáo Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh thì tổng số nợ XDCB của 18 xã, thị trấn là gần 46,2 tỷ đồng. Xã Ninh Xá có số nợ lớn nhất:5,922 tỷ đồng, tiếp đó Trạm Lộ, Ngũ Thái đều trên 5 tỷ đồng. Thấp nhất là Đình Tổ, Trí Quả và Xuân Lâm, mỗi xã cũng nợ gần 700 triệu đồng… áp lực từ nợ XDCB không chỉ đè nặng lên vai các địa phương mà cả cấp huyện, tỉnh. |
Thực tiễn đặt ra từ Thuận Thành
Nhiều địa phương thừa nhận thực tế đầu tư xây dựng như vậy là dàn trải, nhưng đều biện minh đây là những công trình “bắt buộc” phải làm bởi tính cấp thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân và khẳng định yêu cầu xây dựng vẫn còn lớn. Không thể phủ nhận tính thiết thực của những dự án cấp xã, bởi đại đa số là trường học, nhà văn hoá, đường giao thông-nền tảng trong kết cấu hạ tầng để hiện đại hoá nông thôn. Dẫu vậy, trong bối cảnh cả tỉnh đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp tiết giảm đầu tư để kiềm chế lạm phát thì việc các địa phương để nợ đọng lớn làm cho hiệu quả đầu tư kém, ảnh hưởng xấu tới phát triển bền vững kinh tế-xã hội và trật tự trị an nông thôn. Về vấn đề giải quyết nợ XDCB, ông Đặng Gia Trọng, Chủ tịch UBND huyện khẳng định: “Hiện tại địa phương đang tập trung chỉ đạo các xã, thị trấn hoàn thành những công trình dang dở và không cho khởi công mới. Đối với công trình có tính bức bách phải chứng minh đáp ứng đủ 2/3 số vốn mới được phép triển khai. Để tháo gỡ, đề nghị tỉnh và các ngành chức năng tạo điều kiện hỗ trợ tạo vốn bằng việc đẩy nhanh tiến độ các dự án đất đấu giá. Về phía từng địa phương, huyện chỉ đạo đẩy mạnh các biện pháp tăng thu ngân sách, tiết kiệm chi để bổ sung vốn đầu tư XDCB thanh toán nợ đọng… ”.
Cuối năm 2007, Sở Tài chính tiến hành cuộc khảo sát và kết quả cho thấy (số tiền được làm chẵn): Hết 2007, nợ XDCB cấp xã, phường, thị trấn trên địa bàn toàn tỉnh là 297 tỷ đồng (bao gồm công trình, hạng mục công trình hoàn thành đã phê duyệt quyết toán, chưa phê duyệt quyết toán và thi công chuyển tiếp có khối lượng hoàn thành nghiệm thu). Tại thời điểm đó, Thuận Thành và Quế Võ cùng có số nợ 35 tỷ đồng và đứng sau Tiên Du (57 tỷ đồng), Từ Sơn (53 tỷ đồng), thành phố Bắc Ninh (44 tỷ đồng). Như vậy qua 8 tháng số nợ XDCB cấp xã của Thuận Thành đã tăng từ 35 lên 46,2 tỷ đồng. |
Thực ra, đối mặt với bài toán nợ XDCB cấp xã không phải chỉ có riêng Thuận Thành mà là vấn đề của toàn tỉnh.
Theo bà Ngô Thị Huyền Nga, trưởng phòng Quản lý ngân sách, Sở Tài chính: “Hiện nay (tháng 10-2008) chúng tôi chưa có con số thống kê chính xác, nhưng số nợ XDCB cấp xã, phường, thị trấn khó có thể giảm đi nhanh chóng”. Nhận định trên là có lý, bởi cách đây không lâu, ngày 12- 6- 2008 Chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Tuý đã ký Chỉ thị 06 về việc khắc phục tình trạng nợ đọng XDCB cấp huyện, xã trên địa bàn tỉnh. Theo đó, sẽ không quyết định đầu tư mới khi cấp xã, phường, thị trấn có nợ đọng XDCB trên 1 tỷ đồng. Như vậy, quy chiếu ra chắc chắn không riêng gì 15 xã, thị trấn của huyện Thuận Thành không được phép khởi công mới…
Phóng sự của Đức Anh
Ý kiến ()