Trong không khí đón Xuân mới, nhiều người có nhu cầu tìm hiểu về văn hóa truyền thống của quê hương, của dân tộc. Tỉnh Bắc Ninh hào hoa và thanh lịnh có truyền thống văn hóa rất độc đáo mà ngày nay nhiều người không biết, đó là phong tục thi đọc “mục lục” ở một số làng vào dịp đầu xuân. Để hầu chuyện quý bạn đọc trong dịp mừng Xuân mới, chúng tôi xin trình bày đôi chút về văn “mục lục” và phong tục thi đọc “mục lục” ở một số làng cổ thuộc xứ Bắc ngày xưa.
Trước hết, văn “mục lục” là gì? Theo nghĩa đen, “mục” là mắt, “lục” là chép lại; theo nghĩa rộng, “mục lục” là ghi lại những gì đã có, đã diễn ra. Còn theo nghĩa bóng, “mục lục” là bài văn có nội dung ca ngợi cảnh đẹp và mỹ tục của làng.
Tìm hiểu kỹ gần 50 bài văn “mục lục” ở Bắc Ninh, chúng tôi thấy, các bài văn “mục lục” đều được viết bằng chữ Hán theo thể phú, có nội dung ca ngợi cảnh đẹp, nét thuần phong mỹ tục, sự phồn thịnh của các ngành sĩ, nông, công, thương của một làng, được đọc trong dịp tế Thành hoàng và được tổ chức thi đọc trong dịp đầu Xuân.
Ai là tác giả của bài văn “mục lục”? Nếu nhiều văn bia có ghi rõ họ tên, học vị, chức tước của tác giả thì các bài văn “mục lục” không ghi tên tác giả, vì vậy có thể coi đó là sản phẩm trí tuệ của làng.
Hai là, về phong tục thi đọc “mục lục”.
Bài “mục lục” được lưu giữ tại đình làng. Tại các làng, bài văn “mục lục” được đọc lên trong lễ tế Thành hoàng dịp đầu Xuân và được các làng tổ chức thi đọc trong dịp đầu Xuân. Hình thức và thể lệ cuộc thi đọc “mục lục” của các làng tương đối giống nhau. Sau đây xin đơn cử cuộc thi đọc “mục lục” của làng Phù Khê (xã Phù Khê, TX Từ Sơn) thời cổ.
Hội làng Phù Khê được mở từ ngày 11 đến hết ngày 17 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Cuộc thi đọc “mục lục” được tiến hành vào một trong những ngày đó. Đối tượng dự thi là tất cả những người có trình độ đọc thông viết thạo chữ Hán trong và ngoài làng. Ban giám khảo cuộc thi có 12 vị quan viên, ngồi trên những chiếc chiếu hoa cạp điều dọc trong lòng đình, trước hương án. Trước hương án có để một chiếc án nhỏ bày các vật phẩm dùng để làm tặng phẩm cho những người đoạt giải: vuông nhiễu điều, bao chè “Chính thái”,...., hai bên bày một chiêng, một trống. Người đánh chiêng, trống mặc áo dài the, quần trắng, chít khăn xếp, thắt lưng nhiễu điều tết múi. Người đánh chiêng, trống là người đã hiểu bài văn “mục lục”.
Cuộc thi đọc “mục lục” được diễn ra trong khung cảnh đèn nến sáng choang, trầm hương ngào ngạt.
Bản “mục lục” được viết trên tấm lụa, treo trước mặt. Người dự thi phải ăn mặc chỉnh tề, đứng trên ghế cao, có hai người đứng hai bên, khăn áo nghiêm trang.
Cuộc thi được bắt đầu từ giờ Tuất (khoảng 8 giờ tối). Người dự thi đi vào từ cửa hữu, có người đứng đón, được xếp chỗ ngồi đợi, rồi vào trình với quan Đám. Nếu quan Đám đồng ý thì đánh một tiếng trống. Khi trống điểm 3 tiếng là trống gọi thí sinh vào đọc. Thí sinh vào đọc, đứng ở vị trí dành cho người dự thi vái 4 vái vọng vào hậu cung, rồi đứng nghiêm trên ghế dõng dạc thưa: “Thưa quan Đám và các quan, tôi xin vào để khảo “mục lục”. Một tiếng trống nổi lên báo hiệu được phép đọc. Người đọc được nhìn vào bảng, khoanh tay, nhìn kỹ khoảng 5 phút, rồi dõng dạc đọc.
Khi thí sinh đọc hết một câu mà không sai, người đánh trống và người đánh chiêng đánh một tiếng. Thí sinh đọc tiếp. Nhưng nếu thí sinh đọc sai, người đánh trống và người đánh chiêng đánh một hồi nhỏ, người đó bị đình chỉ cuộc thi và được mời ra ngoài.
Người dự thi đọc “mục lục” phải có trình độ Hán học ở mức độ nhất định. Nếu ai đọc trôi chảy, ngừng ngắt, lên giọng, xuống giọng đúng chỗ, có chất giọng tốt, thể hiện được cảm xúc của mình và tránh được những chữ húy có trong bài “mục lục” (chẳng hạn gặp chữ “minh” thì phải đọc là “miêng”, chữ “đông” thì phải đọc là “đang”,...) thì được chấm giải.
Khi thí sinh đã đọc xong bài “mục lục”, Ban Giám khảo cho nổi 3 hồi trống, 3 hồi chiêng, sau đó là lễ xướng danh những người trúng giải. Ngày hôm sau, làng cử người mang giải thưởng đến tận nhà. Người đoạt giải sẽ được thầy dạy (người hướng dẫn cách đọc và khảo thí đầu tiên) và bạn bè đến mừng. (Theo các cụ cao niên ở thôn Phù Khê thì hai đồng chí lãnh tụ của Đảng ta là Nguyễn Văn Cừ và Ngô Gia Tự đã từng tham gia thi đọc “mục lục” do làng tổ chức).
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu bài văn “mục lục” cổ của làng Ngọc Trì (nay thuộc xã Bình Định, huyện Lương Tài) đã được dịch nghĩa để bạn đọc biết thêm về đặc điểm của văn bản giàu tính văn học này ở Bắc Ninh.
Nay mừng!
Đuốc ngọc rõ soi, âu vàng vững đặt,
Áo xiêm như Thánh, đời Nghiêu1 Thuấn2, đền phong thần phượng múa lân trình,
Nệm chiếu an dân, thủa Thương3 Chu4, cõi quế hải kình trầm ngạc bặt.
Đời mừng xem bốn bể một nhà,
Tiệc vui mở nghìn vàng nở khắp.
Đình ta nay
Tiếng dậy trời Nam, danh lừng đất Bắc,
Trước Văn miếu cửa nhân rộng rãi, đường khoa mục bước rộng thênh thang,
Sau Phật đường tòa bảo rỡ ràng, cảnh yên hà trăng in vằng vặc.
Thú mới nùng bút tạo vẽ vời,
Cảnh đua lạ thợ trời xây dựng.
Bạch hổ xếp hàng chầu lại, dấu tướng khanh đòi lợp ngựa dù,
Thanh long uốn khúc ôm về, nền đài các mấy lần bút bảng.
Trạch càn khôn ngọc chuốt làu làu,
Đồ sơn thủy sơn phô sừng sực.
Mũi ngói lục, rồng thiêng diễn vẻ, giời thửa thanh vàng chói một màu,
Gót tầu son, lân thụy vờn đuôi, mây phi ám cẩm phong long thức.
Chốn trung đình tòa ngọc mấy mầu,
Ngôi thượng đẳng bệ rồng thêm sắc.
Cảnh thanh vật lạ, thụy khí làm thế giới một màu,
Gió mát trăng thanh, bình phong mở giang sơn tám bức.
Nhìn xem đất tốt dấu thiêng,
Đành biết người hiền vượt đấng.
Văn đài các đòi tài Tắc5, Tiết6, sức khỏe phù nghiệp đế nền vương,
Vũ công hầu những đấng Hàn7, Trương8, công tạc để thu son khoán sắc.
Bệ rồng gác phượng lộc nước đượm nhuần,
Ngoài quận trong triều, hương trời thơm nức.
Hội sĩ tử sớm khuya cửa Khổng, cõi bồng doanh bước vượt ba nghìn,
Người nông dân ngày tháng nội Chu, kho phong nguyệt cửa đầy muôn ức.
Thương thừa lưa dát ngọc đong vàng,
Công khéo léo cầm cân nẩy mực.
Đời trị mừng thong thả nhởn nhơ,
Khí xuân đượm vui vầy náo nức.
Tiết vừa Xuân Quí, khóm cỏ hoa tươi tốt dờn dờn,
Tiệc mở Hán Nhâm, bình lan xạ hương thơm phưng phức.
Hội thượng thọ đũa ngà chén ngọc, hương lão thêm tuổi hạc nghìn xuân,
Yến quỳnh lâm cân bạc đai vàng, tư văn xếp hàng lan mấy bức.
Yến vàng tiệc ngọc mở mang,
Dịp nhạc, tiếng ca réo rắt.
Ngôi đương tịch một lòng thành kính, hương lửa tiến dâng,
Đấng khảo quan hai chữ công bằng, thau vàng cân nhắc.
Lệ đã nghiêm hương đảng trong ngoài,
Lời lại như giáo phường sau trước.
Ca Phàn Tố hoa tươi hơn hớn, hát cho êm cung Bắc cung Nam,
Đàn Bá Nha9 gió thổi hưu hưu, gảy cho đến tiếng non, tiếng nước.
Trong bài ưu đã dựng cõi trúc ty,
Ngoài chiêu thị phải giữ gìn phép tắc.
Đứng có nơi, ngồi có chốn, rũ lâng lâng những tiếng huyên hoa,
Cười đợi thủa, nói đợi khi, sạch thay thảy mọi nhời hý ước.
Lễ thờ Thần kính tín hết lòng,
Tràng chúc Thánh nghiêm trang gắng sức.
Đình ta tiệc xuân vui mở sum vầy một tiếng vang lừng,
Đất Ngọc khỏe phù truyền dõi muôn đời phẳng lặng.
1- Nghiêu: Theo truyền thuyết Trung Quốc, ngài là con Đế Cốc, sinh ra ở đất Y, sau chuyển đến đất Kỳ nên gọi là Y Kỳ. Lúc đầu được phong ở đất Đào, sau được phong ở đất Đường nên gọi là Đào Đường. Nghiêu là tên hiệu. Sử sách thường gọi là Đường Nghiêu. Ngài là một vị anh quân, sống rất giản dị, hết lòng vì dân vì nước, trị vì đất nước được gần trăm năm. Về già không nhường ngôi cho con mà nhường ngôi cho Đế Thuấn.
2- Thuấn: tức Đế Thuấn. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ngài họ Hữu Ngu, con Cổ Tẩu, mắt có hai con ngươi nên còn có tên là Trùng Hoa. Ngài là người rất tài giỏi, hiền đức, được Đế Nghiêu truyền ngôi và gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho.
3- Thương: Một triều đại trong lịch sử Trung Quốc, sau nhà Hạ (khoảng đầu thế kỷ XVII TCN đến thế kỷ XI TCN), truyền được 30 đời.
4- Chu: Một triều đại trong lịch sử Trung Quốc, sau nhà Thương (khoảng thế kỷ XI TCN đến năm 256 TCN), truyền được 37 đời (trong đó, Tây Chu 12 đời, Đông Chu 25 đời).
5- Tắc (tức Hậu Tắc): Theo truyền thuyết Trung Quốc, là con Đế Cốc, sống vào thời Đế Nghiêu và Đế Thuấn; là người biết trồng các loại ngũ cốc phù hợp với từng loại đất.
6- Tiết : Theo truyền thuyết Trung Quốc, là tiên tổ của vua Thành Thang nhà Thương. Ngài là người có công giúp vua Vũ trị thủy, được phong đất ở đất Thương.
7- Hàn: Hàn Tín (229 TCN- 196TCN), còn gọi là Hoài Âm hầu vì được phong tước hầu và được phong đất ở Hoài Âm, là một vị danh tướng của Lưu Bang. Ông cùng với Trương Lương, Tiêu Hà có công giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán.
8- Trương: Trương Lương (262TCN- 178TCN) tự là Tử Phòng, là bậc khai quốc công thần của nhà Hán. Ông cùng với Tiêu Hà, Hàn Tín được người đương thời tôn là “Hán triều tam kiệt”.
9- Bá Nha: một danh nhạc thời Xuân Thu
Nguyễn Quang Khải
Ý kiến ()