Làng Đại Bái (thuộc xã Đại Bái, huyện Gia Bình) không phải là địa phương có nghề gò, đúc đồng sớm nhất trên đất nước ta, nhưng đến nay vẫn giữ nghề làm các đồ đồng gia dụng phục vụ đời sống sinh hoạt của các gia đình như nồi, sanh, chậu, ấm, chén…
Ca dao vùng Gia Bình có câu:
Muốn ăn cơm trắng cá trôi
Thì về làng Bưởi đánh nồi với anh
Đầu thế kỷ XI, một người làng Đại Bái có tên là Nguyễn Công Truyền có công tổ chức lại sản xuất, nên nghề gò - đúc đồng của làng phát triển lên một bình diện mới. Đến thế kỷ XV, XVI năm ông tiến sỹ người làng Đại Bái gồm: Nguyễn Viết Lai, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Viết Thái, Phạm Ngọc Thanh, Nguyễn Công Tâm sau khi hưu quan về làng thúc đẩy việc sản xuất đồng thành các phường có sự chuyên môn hóa như: phường này chuyên gò nồi, phường chuyên làm mâm, phường chuyên làm ấm, làm chậu… Có phường chuyên bán và buôn…
Muốn đúc được một sản phẩm bằng đồng, trước tiên người ta phải làm ra một cái khuôn tốt. Khuôn đúc đồng được làm bằng đất phù sa trộn với đất sét, lại pha với tro trấu và bông vụn. Đất đem phơi khô rồi xay nhỏ, sàng, rây thật mịn trộn với gạch chịu lửa nghiền nhỏ, rồi hòa trộn đều với nhau, nghiền đảo thật kỹ. Đất lót trong khuôn thì dùng đất đã phơi khô, đập vụn rồi xay mịn trộn với giấy bản và bông vụn để khuôn khỏi co giãn. Khi nấu đồng, phải gạn bỏ tạp chất đến khi nào đồng trong trẻo, sánh nhuyễn mới được đổ vào khuôn. Đến lúc đúc, phải nung khuôn cho nóng đều, thì khi đổ đồng vào khuôn đồng mới chảy đều. Nếu khuôn nóng không đều, tức là khuôn sống thì đúc không đạt. Nếu khuôn nung quá già lửa khi đúc bề mặt đồng sẽ không được trơn mịn… Khuôn non nguội, đồng không chảy hết, không chảy đều đồng sẽ bị đọng lại hoặc bị xô…
Nghề đúc đồng hơn nhau ở chỗ biết nhìn nước đồng nấu đến một mức độ nào đấy thì đồng sẽ chảy đều. Chỉ nhìn bằng mắt thường chứ không có dụng cụ gì để thử hoặc đo đếm. Trăm hay không bằng tay quen có nghĩa là như vậy. Việc làm khuôn, làm cốt, cải cốt, tạo mẫu vốn đã rất khó, khi thành phẩm đúc xong lại còn phải đảm bảo tính năng sử dụng, đảm bảo về giá trị thẩm mỹ của mỗi mặt hàng. Nghĩa là đồ làm ra phải nuột nà, óng chuốt, không lẫn giọt đồng sống, không bị rỗ mặt, đồng sắc và đồng khí mới được xem như đạt chất lượng và mới gây được tín nhiệm.
Theo một số người có tay nghề đúc đồng giỏi cho biết, có hai thứ trong nghề đúc đồng khó nhất, đó là đúc tượng và đúc chuông. Đúc tượng yêu cầu người làm khuôn phải có bề dày kinh nghiệm, có tài năng thật sự thì mới có tượng đẹp, vì tượng đòi hỏi phải thể hiện được cái hồn, cốt, thần thái của từng nhân vật, mà mỗi nhân vật lại có diện mạo, hình tướng khác nhau. Còn như đúc chuông thì không phải người thợ đúc nào cũng đúc được, hoặc chuông nào cũng gọi là chuông được!
Muốn đúc được một quả chuông kêu hay người thợ phải có tay nghề cao, chuyên môn giỏi mới dám đúc. Phải biết tính toán sao cho độ dày, mỏng thật chính xác kết hợp với hoa văn trang trí của toàn thể chiếc chuông, bởi đó là những cung bậc, nên cần biết xử lý chỗ nào cần dầy, chỗ nào cần mỏng, tính toán sao cho thật chặt chẽ chính xác từng phần của chiếc chuông. Mỗi quả chuông phần dầy mỏng có ba phần không được giống nhau, đó là ở tầng dưới cùng phải có độ dầy, phần giữa từ phần vú chuông đến phần vai chuông phải mỏng hơn. Và phần từ vai chuông đến hầu chuông (tức là chỗ để treo chuông) lại phải dầy hơn cả. Tầng dưới cùng, còn gọi là lợi chậu hay miệng chuông thì phải dầy, nhưng độ loe, tức là đường kính bao nhiêu thì tương ứng với độ dầy phải bao nhiêu. Khoảng giữa từ vú chuông (tức vị trí để đánh chuông) phải mỏng ra sao? Khoảng cách từ vai chuông đến hầu chuông (còn gọi là móc treo chuông) lại phải dầy lên như thế nào? Đòi hỏi người thợ phải biết tính toán thật kỹ lưỡng sao cho đúng tỷ lệ mới đảm bảo có được thành phẩm hoàn hảo. Nếu độ dầy mỏng không có sự thay đổi hợp lý, khi đánh lên tiếng chuông sẽ không vang ngân. Đó là còn chưa tính đến việc pha chế cần phải ra sao. Người nghệ nhân đúc đồng giỏi chỉ cần nghe tiếng chuông kêu là biết được tài năng của nhau như thế nào. Chuông tốt thì tiếng chuông kêu ngân nga, trong trẻo… Nếu chuông không đạt yêu cầu thì tiếng kêu gắt, nhỏ, cụt… Thành chuông mỏng quá thì tiếng kêu “oàng”. Đồng lẫn “giọt sống” thì tiếng kêu tạp, rè, không trong.
Ngoài những mặt hàng như tượng thờ, đỉnh, chân đèn, lư hương… thì những sản phẩm trống, chuông là những vật dụng hết sức quan trọng trong việc phục vụ lễ hội. Trong lễ hội của người Việt, nếu tiếng chuông (hoặc chiêng) thuộc phần lễ, thì tiếng trống thuộc phần hội. Đôi khi cả chiêng và trống cùng được thỉnh lên, đánh lên trong phần lễ, đó là những tiếng: tùng bi ly… tùng bi ly… (tùng là tiếng trống, bi ly là tiếng chuông (hoặc chiêng). Lễ là để tưởng nhớ, không thể thiếu vắng tiếng chuông (chiêng). Khi tiếng chuông (hoặc chiêng) thỉnh lên làm cho quá khứ như sống lại. Trong khi đó phần hội không thể thiếu vắng tiếng trống, tiếng trống đánh thức con người đương đại trở về ký ức xa xưa, về cội nguồn của mình… Ngoài ra tiếng trống có tác dụng kêu gọi, giục giã, tập hợp, kích động, hối thúc… Âm thanh của chuông mang tính linh thiêng chứ không như những tiếng kẻng kêu gọi nhắc nhở gấp gáp, vội vã và cụt lủn. Chính vì thế nên chuông đúc phải đảm bảo những yêu cầu khắt khe của kỹ thuật.
Ngoài những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật, mỹ thuật cao như nêu trên, ở làng Đại Bái nhiều gia đình còn sản xuất các mặt hàng thờ tự như đài thờ, mâm bồng, chân đèn, chân nến, hạc thờ, lư hương, đèn, đỉnh đồng, hoành phi, câu đối, hình tượng các vật linh: long, ly, qui, phượng, sư tử, mặt hổ phù, thạp đồng, trống đồng… Đặc biệt hơn cả là tượng các vị Phật, tượng các vị Thánh mẫu và tượng chân dung các danh nhân của quê hương, đất nước... Không chỉ dừng lại là những sản phẩm đồng đúc ra sao cho trau chuốt trơn nhẵn, người ta còn khảm, cẩn các chi tiết hoa văn cầu kỳ, tinh xảo trang trí lên bề mặt các sản phẩm cho thêm phần sinh động, đẹp mắt.
Là một làng nghề giàu có từ lâu đời, từ xưa người làng Đại Bái ngoài việc đồng áng trồng trọt, chăn nuôi mọi gia đình còn chuyên chỉ việc làm đồ đồng. Việc canh nông nhiều gia đình phải thuê mướn người các làng khác đến làm, để chỉ chuyên vào việc sản xuất đồ đồng. Làng Đại Bái hiện nay nghề đúc, gò đồng ngày càng phát triển mạnh mẽ, ngoài việc sản xuất đồ đồng gia dụng truyền thống, đồ thờ tự, đồ mỹ nghệ… còn có nhiều gia đình sản xuất một số mặt hàng kim khí, các chi tiết phụ kiện máy móc bằng đồng, chân nan hoa xe đạp, các chi tiết trong cầu dao điện,... tạo công ăn việc làm cho hàng trăm, hàng nghìn người, nhìn chung người lao động tại làng Đại Bái có thu nhập khá ổn định, trong đó có không ít người có mức thu nhập khá cao.
Bản sắc văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất của một dân tộc. Về phương diện vật chất đó là các giá trị tồn tại một cách hữu linh còn gọi là văn hóa vật thể. Về phương diện tinh thần đó là các sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, còn gọi là văn hóa phi vật thể. Văn hóa vật thể thuộc về hình thức, hiện vật có thể cầm, nắm, sờ mó được, qua thời gian năm tháng có thể có sự biến đổi, tuy sự biến đổi ấy không đáng lo ngại, nhưng nếu bị biến dạng nhiều theo chiều hướng thấp kém đi thì vẫn luôn là sự đáng tiếc. Còn các giá trị văn hóa phi vật thể thuộc về phần nội dung, nó là những giá trị tinh thần, nếu mà bị biến dạng méo mó xộc xệch càng nhiều thì đời sống mỗi ngày càng khó khăn, tao loạn và nhiễu nhương. Bản sắc dân tộc là khuôn vàng, thước ngọc, là những giá trị vượt thời gian, là linh hồn của dân tộc đó, nó không chỉ thể hiện ở hình thức như cờ, lọng, mũ, áo, ngai, kiệu, nhà cửa, đỉnh, hạc, bát hương… mà còn thể hiện ở luân lý, đạo đức của mỗi con người và của cả cộng đồng. Nếu để mất đi bản sắc dân tộc thì việc khôi phục lại là điều vô cùng khó khăn.
Đại Bái từ xa xưa là một trong những làng có khá nhiều nghệ nhân đúc đồng, gò đồng tài hoa. Từ thời Lê (thế kỷ XV) làng Đại Bái có nhiều người được chiêu mộ ra kinh đô để đúc tiền và đúc đồ thờ tự cho triều đình, góp phần đáng kể để tạo nên một kinh đô Thăng Long ngàn năm văn hiến. Là một “xã” trong phường Ngũ Xã ở Hà Nội ngày nay. Sang đến thời Nguyễn cũng có nhiều nghệ nhân giỏi được triều đình trưng tập vào kinh đô Huế để đúc các đồ tế lễ, chuông, khánh, vạc, đỉnh cũng như các loại vũ khí cho quân đội, từ đó hình thành làng đúc đồng Xuân Dương ở Huế. Trong đại nội Huế, hiện nay vẫn còn 10 chiếc vạc đồng lớn đúc vào thế kỷ XVII, 9 chiếc đỉnh đồng lớn đúc dưới triều vua Minh Mạng vào những năm 1835 - 1837. Những sản phẩm này thể hiện bàn tay tài khéo của các nghệ nhân đúc đồng của cố đô Huế. Chắc chắn trong số những nghệ nhân tài hoa ấy có nhiều người gốc gác ở Đại Bái - Gia Bình - Bắc Ninh.
Ý kiến ()