Tay ôm những cuốn tài liệu dân số, vai đeo chiếc túi đựng bao cao su và thuốc tránh thai, chị Đỗ Thị Nụ cộng tác viên dân số thôn Ngô Cương, xã Nhân Thắng (Gia Bình) dí dỏm: “Hôm nay có “hàng mới’’. Tôi đang chuẩn bị mời chị em đến nhận miễn phí… Biện pháp truyền thông dân số hiệu quả nhất là đi từng ngõ, gõ từng nhà… Thấm thoắt đã gần 20 năm trôi qua, chị Nụ ngày đêm lặng lẽ góp phần vào thành tích: Địa phương 12 năm liên tục không có người sinh con thứ 3.
“Vác tù và hàng tổng”
Chị Đỗ Thị Nụ, người phụ nữ gánh việc xã hội trên cả hai vai: Chi hội trưởng chi hội phụ nữ đồng thời là cộng tác viên dân số tích cực của làng. Mỉm nụ cười đôn hậu tiếp khách, chị Nụ tâm sự: “Vận động kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) còn khó hơn đi cày, đi cấy. Vào buổi tối tôi mới tìm đến từng cặp vợ chồng tỉ tê trò chuyện, động viên chị em sinh ít, đẻ thưa. Lắm lúc phải “chịu đòn” vì đến gia đình họ vận động KHHGĐ có khi bị người chồng phản ứng quyết liệt, sỗ sàng. Quan niệm sinh có đủ nếp, tẻ vẫn còn tiềm ẩn trong nhận thức của nhiều gia đình nông thôn”. Có người chồng ra oai không muốn cho vợ đi đình sản, đặt vòng tránh thai nên cứ viện cớ là sợ “đổi máu” sinh ra nóng tính, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Thế là cộng tác viên như chị Nụ phải kiên trì đến rồi lại quay về, rồi lại đến…
Chị không nhớ hết mấy lần “bỏ của chạy lấy người”, bởi gặp phải các ông chồng khó tính, say xỉn cầm gậy đuổi với lời kết tội: “Đừng làm phiền vào chuyện nhà tôi”. Những lúc khó khăn, tôi nghĩ mình không thể bỏ cuộc mà liên kết với chị em và chính quyền địa phương để thực hiện tốt vai trò người cộng tác viên dân số, phân tích cho đối tượng thấu hiểu chủ trương, chính sách DS-KHHGĐ của Đảng, Nhà nước”. Chị kể về trường hợp vợ chồng anh Điền, chị Hải. Vợ chồng anh Điền sinh 2 con gái, hoàn cảnh gia đình thời điểm trước rất khó khăn, Chi hội phụ nữ và chính quyền địa phương thường xuyên giúp đỡ lúc giáp hạt và ngày Tết. Chồng chị quan niệm phải đẻ cho bằng được con trai… để có người nối dõi. Chúng tôi đã kiên trì phân tích, thuyết phục anh thấy rõ lợi ích của gia đình ít con. “Mưa dầm thấm lâu”, khi đã hiểu ra vấn đề anh đã nhất trí cho chị tham gia CLB phụ nữ không sinh con thứ 3. Bây giờ hai cô con gái của họ đã học đại học, kinh tế thì vững vàng lắm…
Người làm công tác dân số như chị chẳng khác gì người “vác tù và hàng tổng”, trợ cấp chỉ vẻn vẹn 50 nghìn đồng một tháng, không đáp ứng được cho hoạt động tuyên truyền, vận động KHHGĐ. Cộng tác viên phải bỏ tiền nhà chi phí cho việc đi lại trong làng, ra xã, lên huyện. Chị Nụ cho biết: “Nếu mình chờ kinh phí ở trên rót xuống cho đủ mới hoạt động thì khó hoàn thành nhiệm vụ. Cộng tác viên không bám sát địa bàn động viên, nhắc nhở thường xuyên thì nguy cơ các cặp vợ chồng đẻ thêm con thứ 3 trở lên”.
Thành công từ 1kg thóc...
Đồng hành, gắn kết với phong trào của làng suốt từ ngày đầu gian khó với biết bao thăng trầm. Chị tham gia hoạt động phong trào phụ nữ và cộng tác viên dân số từ năm 1993. Khi ấy hoạt động của Hội phụ nữ tại thôn mới là con số không. Với suy nghĩ lời nói đi đôi với hành động, chị đã bỏ nhiều công sức đi vận động, đồng thời tham mưu với cấp ủy, chính quyền của làng phát động nhiều phong trào thiết thực.
Phong trào chung, nhưng sự quan tâm luôn tới từng cá nhân. 3 tổ phụ nữ Tình thương thường xuyên nắm bắt tình hình đời sống chị em để có hình thức giúp đỡ kịp thời như giúp bằng thóc, tiền, cây con giống, phân bón, ngày công… Chị em đã vươn lên xây dựng gia đình theo 4 chuẩn mực: No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Bí quyết của chị rất đơn giản. Nói là làm, việc gì có lợi cho dân cho làng, chị quyết tâm làm bằng được. Trong vai trò người đứng đầu chị đã quy tụ chị em trong Ban chấp hành thành một khối thống nhất, dám chịu trách nhiệm trước cấp ủy, chính quyền và tập thể chị em. Chi hội phụ nữ luôn mạnh dạn đứng ra đảm nhận làm thủy lợi nội đồng, đường giao thông, dọn vệ sinh… Nhận việc nào chị em luôn cố gắng hoàn thành tốt, đảm bảo chất lượng. Qua đó vai trò của tổ chức hội được nâng lên, cấp ủy, chính quyền thêm tin tưởng đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho hoạt động phong trào.
Để động viên phong trào, hàng năm Chi hội đều tổ chức sơ, tổng kết, bình xét khen thưởng thấu tình đạt lý. Trên cơ sở nguồn quỹ từ lao động tập thể, tùy điều kiện từng năm Chi hội tổ chức liên hoan hay các chuyến thăm quan danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử như Bảo tàng phụ nữ, chùa Bái Đính, Yên Tử, chùa Hương…
Từ mái nhà chung của phong trào phụ nữ, hoạt động công tác dân số thêm khởi sắc. CLB phụ nữ không sinh con thứ 3 được thành lập và duy trì suốt từ năm 1998 đến nay. Chị Nụ cho biết: “Mới đầu phát động, chúng tôi mỗi hội viên đóng góp 1 kg thóc gây quỹ. Với vai trò hạt nhân, hoạt động của CLB với 25 hội viên đã tác động đến phong trào chung, giúp cho Ngô Cương duy trì thành tích 12 năm liên tục (từ năm 1999 đến nay) không có người sinh con thứ 3 và phong trào đó đã trở thành nếp nghĩ, cách làm đang lan tỏa ở vùng quê nơi đây”.
Ghi chép của Việt Tâm - Văn PhongPV-BĐTL (Thựchiện)
Công tác Dân số- KHHGĐ đứng trước một số thách thức không nhỏ
(Bà Hồ Xuân, Chi cục trưởng Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh)
Trong 10 năm qua, Bắc Ninh đã đạt được kết quả to lớn trong công tác DS - KHHGĐ. Tuy nhiên lại đứng trước một số thách thức không nhỏ: Qui mô dân số tiếp tục gia tăng; Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đã ở mức báo động; Sức khỏe sinh sản đứng trước thách thức mới như: Nạo phá thai có xu hướng tăng trong vị thành niên và thanh niên; Viêm nhiễm đường sinh sản khá phổ biến ở phụ nữ; Tỷ lệ vô sinh có chiều hướng tăng dần…
Trong giai đoạn tới cần thấm nhuần quan điểm của Đảng, nhà nước về công tác Dân số; kiên trì tuyên truyền, vận động gắn liền với dich vu seo vụ KHHGĐ chất lượng cao đến tận người dân; Có chính sách ưu đãi cho đối tượng chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng nhân dân thực hiện KHHGĐ. Hoạt động tuyên truyền phải phù hợp với từng địa phương, từng nhóm đối tượng để họ hiểu và tự nguyện thực hiện chính sách Dân số-KHHGĐ, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh trong giai đoạn tiếp theo.
Nên có chế độ ưu đãi với cộng tác viên dân số
(Bà Trần Thị Chín, xã Tam Giang, Yên Phong)
Đội ngũ cộng tác viên dân số là những người trực tiếp vận động quần chúng nhân dân thực hiện các qui định của pháp luật về dân số, giúp chính quyền các cấp hiểu rõ mức độ tăng dân số ở địa phương mình. Tuy nhiên, cơ chế chính sách đối với đội ngũ cán bộ này còn thấp so với sức cống hiến của họ. Tôi nghĩ Nhà nước cần có chính sách chế độ đãi ngộ xứng đáng, giúp CTV dân số hoạt động hiệu quả hơn.
Hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các CLB Dân số
(Bà Nguyễn Thị Thúy, Giám đốc Trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện Gia Bình)
Kinh nghiệm từ thực tiễn cho thấy công tác truyền thông dân số thông qua hoạt động mô hình CLB đạt kết quả cao. Tuy nhiên để duy trì hoạt động của CLB, cấp trên cần có sự hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động sinh hoạt nhóm, tổ chức sơ, tổng kết, khen thưởng… Đặc biệt là công tác khen thưởng tới tận cơ sở. Điển hình như từ năm 2005, khi UBND huyện Gia Bình ban hành qui chế khen thưởng về công tác dân số, kết quả công tác dân số- KHHGĐ có chuyển biến tích cực. Nhiều thôn, làng phấn đấu giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, có thôn, làng còn giữ được nhiều năm liền không có người sinh con thứ 3 trở lên như Ngô Cương (Nhân Thắng), Trại Than (Cao Đức)…
PVBĐ-TL (Thực hiện)
Ý kiến ()