Tại tập 6 trong bộ “Tổng tập văn khắc Hán Nôm”, do Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội phối hợp với Viện Nghiên cứu Hán Nôm (thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và Viện Cao học Thực hành của Cộng hòa Pháp thực hiện, Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin xuất bản năm 2005, có in lại thác bản văn bia “Hậu thần bi” mang số hiệu 5028- 5029. Thác bản có 2 mặt, khổ 55 x 85, gồm 41 dòng chữ Hán và Nôm, toàn văn có khoảng 800 chữ, trán bia có khắc họa tiết lưỡng long chầu mặt trời và mây lửa, diềm bia trang trí hoa lá dây leo. Văn bia được dựng ở bên phải trước cửa đình Nghiêm thôn xã Vũ Dương tổng Vũ Dương huyện Quế Dương (nay thuộc thị trấn Phố Mới huyện Quế Võ). Thác bản này được Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội in dập khoảng năm 1939. Chữ trên thác bản rất đẹp, sắc nét, không có kỵ húy, có 3 trường hợp viết đài ở dòng thứ 6 (mặt một), dòng thứ 4, dòng thứ 14 (ở mặt 2).
Tìm hiểu nội dung văn bia, chúng tôi thấy đây là tư liệu quý góp phần giúp chúng ta có thêm tư liệu để nghiên cứu về tình hình làng xã ở Bắc Ninh thế kỷ XVII, đặc biệt về tiểu sử Tiến sĩ Nguyễn Đình Trạch.
Nội dung văn bia “Bia hậu thần” Mọi người trên dưới thôn Nghiêm xã Vũ Dương huyện Quế Dương đồng lòng dựng bia ghi chép về việc hậu thần.
Thường nghe, người hiền sinh ra trên đời tên trùm bốn biển, tất người trong bốn biển đều ngưỡng mộ cao danh; bậc hào kiệt xuất chúng đức trùm một cõi, ắt trong làng, hết thảy tông thân hậu đức, chép lại trên thẻ tre để lưu lại, đặng làm tỏ rõ sự chu toàn. Ngài dùng sức mạnh binh nhung, xông pha vào chốn rừng sâu, trồng rặng trúc, cài then ngọc, khiến cho từ kẻ man di đến người hoa hạ nghe danh đã yêu, hương thôn càng ngày càng tin phục. Ngài duy có cơ trước sau, có khác đời thường. Đó là cái lý xưa nay. Không thể nói hết những điều tốt lành.
Nay, triều đình hữu đạo, tiết xuân trong lành, quận ấp yên vui, nông phu sáng ngày gọi nhau đi làm, yêu việc cày cấy, ăn uống đầy đủ chẳng cần tìm người. Ngoài đường dùng để mở chợ làm nơi hội hợp lưu thông hàng hóa, thông thương hữu ích; trong vườn, gió xuân dấy nhạc du dương, rộn ràng hoà khí kéo dài cuộc vui. Sáng sáng đọc Thượng thư 1dạy điều phải nhường trên dưới, gắng sức vượt lên; cúi xét lời trong Đại học2, vực dậy điều nhân, già trẻ xướng tùy hòa mục. Mỗi khi ngụ ý đàm ân, học trò đều viện đến điều nhân của người thân để thêm yêu người.
Thôn ta có ngài Quan viên Tướng quân Kim Ngô vệ Kỳ bài Chỉ huy sứ Tư Chỉ huy sứ Lương Nghĩa hầu Nguyễn Thế Vinh thuộc hạng lương gia hệ tộc, thân thế công hầu, vượt trên bậc đại văn nền phúc, mở ra nền trí, bỏ tiền bạc để theo kịp bậc quý hầu, anh tài, khảng khái, có chí dốc lòng trừ ác, nêu cao điều thiện. Trong những ngày ruổi ngựa xuất binh, nhiều lần ngài lập được công lớn, được trọng thưởng một trong ngũ tước (...) lại dùng tiền phát chẩn, tôn kính chiếu nhuận, ban rộng trợ khắp, lo liệu đầy đủ. Bèn trước hết trợ tiền của cho đình Vũ Nghiêm, gỗ rừng phụng cúng đầy đủ, lại cho đình rất nhiều ruộng. Ngài đức rộng mà sâu dày. Những người tín thí đều cùng tôn kính. Nhân đó, cùng Hội đình trung làm văn khoán chính thức từ nay về sau toàn thôn cúng giỗ ngài làm hậu thần cùng các nghi lễ tế lế tôn kính khác, các vật phẩm phải tuân theo bản ước. Thảng hoặc bất kể người nào làm trái với việc cung nghinh đến bậc chí tôn, thì thượng đế chiếu đến người đó, sẽ cùng nhau hiệp phù ý thuận tình xin ngăn chặn, cho đến ở làng khác. Đặc biệt dùng bia khắc trên đá lưu làm trụ cột cao ngất, lấy thuần phong để đôn tự điển, dẫn điển xưa để làm điều đẹp đẽ. Điều đó là thường tòng hậu vĩ. Thấy vậy bèn khắc bài minh ca tụng công đức đó. Điều này có thể được lắm chứ. Nên nhân đó, có bài minh phụ rằng (bài minh có 40 câu).
Kê:
- 50 quan sử tiền, có hai thửa ruộng liền nhau tại xứ Cội Mã, phía Đông gần đường lớn, phía Tây gần đường nhỏ và gần ruộng thần xứ Mã Vĩ.
- Cấp thực điền hai thửa liền nhau tại xứ Đồng Phủ, phía Đông gần đường nhỏ, phía Tây cạnh ruộng Nguyễn Viết Phú, Ngô Đình Phú; lại có một thửa ở xứ Hà Liễu, phía Đông gần ruộng Tam bảo, phía Tây gần ruộng thôn Mao Dộc. Cộng là 1 mẫu 2 sào.
Ngày tốt tháng Quý Đông năm Vĩnh Trị thứ 4 (ngày tốt tháng Chạp năm 1679) Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, Thị Nội tán Tư huấn Chiêu Văn quán Dương Xuân tử Nguyễn Đình Trạch soạn, thiền tăng trụ trì chùa Kim Khôi thôn Nghiêm tự là Tư Nguyên hiệu Pháp Đạt viết chữ trên bia.
Quan viên Nguyễn Quang Minh, Lại Hữu Hảo, Lại Thế Hiền, Mai Đình Phú, Mai Đình Quý, Mai Đình Vận, Lại Đức Kỳ, Lại Đình Diên, Lại Tiến Tài, Lại Hữu Thực, Mai Chỉ Nội, Lại Tiến Chức, Lại Đăng Quang, Lại Hữu Hừng, Mai Anh Tồn, Mai Đình Vận, Mai Đăng Tượng, Mai Chỉ Đá, Lại Đức Bảng, Nguyễn Quang Tiến, Lại Hữu Đội, Mai Công Tiến, Lại Đăng Cao, Lại Đăng Chử, Mai Đình Tập, Mai Công Ngạn, Nguyễn Quang Thông, Lại Đăng Tướng, Lại Đình Chủng, Mai Duy Lương toàn thôn quan viên lớn bé cùng ký.
Giá trị lịch sử, giá trị tư liệu và ý nghĩa giáo dục của văn bia “Hậu thần bi” do Tiến sĩ Nguyễn Đình Trạch soạn - Một là giá trị lịch sử, giá trị tư liệu của văn bia
Tìm hiểu nội dung văn bia “Hậu thần bi” do Tiến sĩ Nguyễn Đình Trạch trên đây, chúng tôi thấy ở đó có giá trị lịch sử và giá trị tư liệu rất cần được chú ý.
Tìm hiểu nội dung văn bia, chúng tôi thấy, nhờ có văn bia mà chúng ta biết được vào những năm 60 của thế kỷ XVII, thôn Nghiêm có một vị Tướng quân Kim Ngô vệ Kỳ bài Chỉ huy sứ Tư Chỉ huy sứ Lương Nghĩa hầu Nguyễn Thế Vinh thuộc hạng lương gia hệ tộc, thân thế công hầu. Cũng nhờ có văn bia “Hậu thần bi”, chúng ta được biết vào năm Vĩnh Trị thứ 4 (1679), làng Nghiêm thôn có trùng tu đình. Văn bia cũng cho chúng ta biết, thời đó, những con em của làng sau khi đã thành danh có những nghĩa cử tỏ sự tri ân đối với làng bằng cách công đức tiền ruộng mỗi khi làng có công việc xây dựng những cơ sở thờ tự của cộng đồng.
- Hai là giá trị tư tưởng của văn bia
Tìm hiểu nội dung văn bia, chúng tôi thấy tác giả văn bia thể hiện kín đáo tình yêu quê hương Quế Dương, Kinh Bắc của ông, sự tôn kính người có tâm đức trong việc xây dựng cơ sở thờ tự của làng mà người đó nhờ ông soạn văn bia hậu thần và thể hiện tư tưởng không những của Nho giáo mà có cả tư tưởng Phật giáo của ông. Những tư tưởng này được phản ánh qua việc đề cao tư tưởng của sách Thượng thư, sách Đại học. Chẳng hạn, ông viết “Sáng sáng đọc “Thượng thư” dạy điều phải nhường trên dưới, gắng sức vượt lên; cúi xét lời trong “Đại học”, vực dậy điều nhân, già trẻ xướng tùy hòa mục” và qua một số câu trong bài minh của văn bia (“Hoàng đồ củng cố/ Đế đạo hà xương”.
- Ba là ý nghĩa giáo dục
Đọc văn bia, chúng ta thấy tính chất minh bạch rất được đề cao. Đó là niên đại của văn bia; đó là số tiền, diện tích ruộng, số thửa ruộng và vị trí của mỗi thửa ruộng, đông Đoài giáp đâu, đều được ghi rất cụ thể, tường minh. Một điều thể hiện tính minh bạch nữa là ở phần lạc khoản, văn bia có ghi rõ họ tên, học vị, chức tước của người soạn văn bia và người viết chữ trên bia-điều mà rất nhiều văn bia không thực hiện được. Ở cuối có ghi rõ họ tên của 30 người là quan viên trong làng cùng ký tên. Điều này có giá trị rất quan trọng không những về mặt tư liệu mà nó còn có ý nghĩa giáo dục cho thế hệ sau về mặt phương diện ý thức công dân đối với làng.
Đọc văn bia “Hậu thần bi” do Tiến sĩ Nguyễn Quang Trạch soạn với văn phong hàm súc, chúng tôi cho rằng, khi còn sống, có thể cụ đã soạn nhiều văn bia, minh chuông, làm nhiều thơ phú. Nhưng rất tiếc cho đến nay chúng ta chưa sưu tầm được bao nhiêu. Chúng tôi nghĩ rằng, văn bia này chỉ là một trong nhiều văn bia mà cụ đã soạn khi còn đương chức và lúc đã về hưu.
1. Thượng thư: là bộ sách lịch sử-triết học-chính trị-xã hội, ghi chép các sự kiện từ thời Nghiêu Thuấn đến thời Thương Chu ở Trung Quốc.
2. Đại học: Nguyên là một chương của Lễ ký, do Tăng Tử và học trò của ông soạn, là một trong tứ thư (gồm Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dung) mà các trường dạy chữ Hán dùng làm sách giáo khoa cho học trò.
Nguyễn Quang Khải
Ý kiến ()