Đợt khai quật khảo cổ học di tích chùa Tĩnh Lự (xã Lãng Ngâm, Gia Bình) vừa hoàn thành sau 4 tháng tiến hành (từ tháng 4 đến tháng 8-2022) trong điều kiện thời tiết, địa hình đầy khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, đoàn khai quật khảo cổ học đã thu được nhiều kết quả thú vị, bất ngờ với số lượng lớn hiện vật có giá trị tiêu biểu và nhiều dấu vết di tích kiến trúc quan trọng... Đó là bằng chứng vật chất thuyết phục, khẳng định sự tồn tại của kiến trúc Phật giáo thời Lý được khởi dựng cách đây gần một nghìn năm, đồng thời cung cấp thông tin xác thực quý giá, chứng minh tính liên tục hoạt động của chùa Tĩnh Lự trong khoảng 800 năm kể từ khi xây dựng năm 1055 đến thế kỷ XIX...
Chạm vào lịch sử
Theo Việt sử lược, năm 1055, vua Lý Thánh Tông (1023-1072) “xây chùa Đông Lâm và chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu”. Đây là tư liệu sớm nhất hiện ghi chép về niên đại khởi dựng cũng như tính chất “quốc tự” của chùa Tĩnh Lự. Dưới thời Lý, Tĩnh Lự giữ vai trò như một quốc tự và là nơi tu tập của những nhà sư danh tiếng như thiền sư Chân Không (1046-1100), Thảo Nhất... Đến thời Lê Trung hưng, chùa Tĩnh Lự được trùng tu quy mô lớn vào giai đoạn 1645-1648 thời chúa Trịnh Tráng và 1705-1719 thời chúa Trịnh Cương.
Trong gần 4 tháng tổ chức khai quật, đoàn khảo cổ học do PGS.TS Đặng Hồng Sơn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) chủ trì đã tiến hành mở 4 hố khai quật, 2 hố thám sát và phát hiện các dấu tích kiến trúc thời Lý-Trần, Lê Trung hưng như: Móng cột, bó nền, khoảng sân, đường đi, cống nước... Trong đó, phát hiện dấu vết ba mặt bằng kiến trúc thời Lý-Trần, có dấu vết diện tích khoảng 180m2 và 200m2. Xen kẽ giữa các kiến trúc này có ba khoảng sân, ba cống nước và một đường đi. Các kiến trúc đều có hướng quay về phía Đông Nam.

Hội thảo đầu bờ báo cáo kết quả sơ bộ khai quật khảo cổ học chùa Tĩnh Lự, xã Lãng Ngâm, Gia Bình.
Trong các hố khai quật và rải rác khu vực xung quanh chùa, đoàn khai quật cũng phát hiện số lượng lớn đồ gốm sành sứ thời Lý-Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng và Nguyễn gồm vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc, có cả gạch in tên cơ quan triều đình thời Trần sản xuất trong kinh thành Thăng Long; các đồ gốm sành thường nhật (bát, đĩa, cốc, chén, bình, vò, đèn...); đồ thờ (chân đèn, lư hương...).
Di vật gây chú ý nhất là bộ góc đao kiến trúc kích thước lớn, dài khoảng 90cm và nặng khoảng 30-35kg bằng gốm men thời Lý. Đây là hiện vật rất quý và hiếm, có thể làm căn cứ cơ sở cho việc phác thảo kiến trúc của một ngôi chùa hoàng gia thời Lý. Các chuyên gia nhận định, bộ góc đao này rất hiếm gặp, kể cả ở kinh thành Thăng Long và cho rằng nó xứng đáng được lập hồ sơ đề nghị công nhận Bảo vật Quốc gia.
Với những xuất lộ quan trọng về mặt bằng di tích và di vật đã cho phép nhận diện bước đầu từng hạng mục kiến trúc cụ thể cũng như hình dung không gian quy hoạch tổng thể kiến trúc chùa Tĩnh Lự qua các giai đoạn lịch sử, kéo dài từ Lý-Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng và đầu thời Nguyễn. Kết quả khảo cổ học cũng tương đồng với những gì lịch sử ghi chép nên bước đầu khẳng định: Có thể Tĩnh Lự thiền tự là ngôi quốc tự đầu tiên được triều Lý xây dựng ở Bắc Ninh vào năm 1055 và là hình mẫu tiền đề cho bố cục các ngôi chùa thời Lý giai đoạn sau như chùa Phật Tích (1066), chùa Dạm (1086-1088)...
Những phát hiện mới về khảo cổ học chùa Tĩnh Lự năm 2022 không chỉ giúp giải mã lịch sử, cho chúng ta tận mắt chiêm ngưỡng, sờ chạm vào dấu tích, di vật thật của một kiến trúc hoàng gia thời Lý, mà còn mang đến nhận thức mới có giá trị khoa học và từ đó đặt ra những giả thuyết nghiên cứu tiếp theo...
Mở ra những nghi vấn mới...
Bất ngờ trong đợt khai quật khảo cổ học lần này là phát hiện một mộ gạch thời Đông Hán, thế kỷ I-III nằm phía trước dưới chân bia đá Tĩnh Lự thiền tự bi. Phát hiện này cùng với phát hiện trước đây về đồ đồng văn hóa Đông Sơn ở xã Lãng Ngâm cho thấy từ thời Đông Sơn (cách ngày nay 2700-1800 năm) đến thời Đông Hán (thế kỷ I-III), khu vực núi Đông Cứu (Thiên Thai) đã là một nơi tụ cư của người Việt. Vào thời Đường, khu vực này có thể là một trung tâm Phật giáo theo như ghi chép trong An Nam chí nguyên về việc Cao Biền dựng tháp Phật trên núi Đông Cứu.
Song song với nghiên cứu hiện trường, đoàn khai quật còn tập trung tổ chức khảo sát và nghiên cứu tấm bia Tĩnh Lự thiền tự bi. Bia khắc năm 1648 gồm khoảng 7672 chữ Hán Nôm, ghi chép việc trùng tu và tên các tín chủ quyên góp tiền xây chùa... Đây là hiện vật lộ thiên quý giá nhất vẫn được bảo lưu trong khuôn viên chùa. Qua nghiên cứu đối sánh về đặc điểm hình dáng tổng thể, bố cục, kích thước, vị trí tên bia, trán bia, lòng bia... các nhà nghiên cứu nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giữa bia chùa Tĩnh Lự với các tấm bia thời Lý hơn là các bia ký thời Lê Trung hưng. Hơn nữa, trên mặt bia còn phát hiện rải rác một số chữ Hán đã bị mài mờ và không liên quan đến nội dung khắc năm 1648. Việc mài bia thời Lý để khắc lại nội dung thời Lê cũng từng thấy ở nhiều di tích thuộc các tỉnh, thành phố lân cận với Bắc Ninh.

Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Vương Quốc Tuấn phát biểu tại Hội thảo báo cáo sơ bộ kết quả khai quật khảo cổ học chùa Tĩnh Lự tháng 8-2022.
Chính vì vậy, giả thiết đặt ra, có thể Tĩnh Lự thiền tự bi là tấm bia liên quan đến nội dung khởi dựng chùa năm 1055 nhưng đến năm 1648 bia đã mờ nên được tận dụng lại để khắc nội dung mới, đồng thời làm thêm đế bia, hai tấm trang trí và mái bia. Còn bia cũ có thể được đặt trên lưng rùa đá vì hiện nay đầu rùa được tìm thấy trong bộ sưu tập di vật của Đại đức Thích Minh Đạt là sư trụ trì chùa Tĩnh Lự. Điều đó có nghĩa là, nếu xác định được niên đại thời Lý thì Tĩnh Lự thiền tự bi chính là phôi còn lại của tấm bia Lý đầu tiên được biết đến trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Đây là một phát hiện rất mới về sự có mặt của cốt bia thời Lý ở chùa Tĩnh Lự. Điều này tiếp tục gợi mở, đặt ra những khó khăn thách thức trong việc lý giải vậy chùa Tĩnh Lự khi được hoàn thành vào thời Lý thì có dựng bia không? Nếu có thì tấm bia đó đang ở đâu?
 Pho tượng đất nung khắc chữ nổi “Khai thiên thống vận hoàng đế”. |
Một di vật rất đặc biệt, thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học là bức tượng đất nung nhỏ, sau lưng tượng có in dấu chìm tạo chữ nổi “Khai thiên Thống vận Hoàng đế”- đây là miếu hiệu của vua Lý Thái Tông (1000-1054), thân phụ của vua Lý Thánh Tông. Bức tượng này do Đại đức Thích Minh Đạt trụ trì chùa Tĩnh Lự phát hiện trong quá trình xây Tam bảo mới vào năm 2019.
Trước đây ở khu vực chùa Phật Tích và núi Bát Vạn (Tiên Du) hay trong trung tâm Hoàng thành Thăng Long từng phát hiện các tháp đất nung nhỏ in chữ “Tháp chủ Khai thiên Thống vận Hoàng đế”. Vì vậy, PGS.TS Đặng Hồng Sơn, chủ trì đoàn khai quật khảo cổ học cho rằng: Phát hiện bức tượng in miếu hiệu khiến chúng tôi liên tưởng đến một giả thiết rằng chùa Tĩnh Lự được Lý Thánh Tông cho xây dựng năm 1055 để thờ thân phụ Lý Thái Tông mất năm 1054...
Đánh giá cao kết quả quan trọng của đợt khai quật khảo cổ học chùa Tĩnh Lự song các nhà khoa học cũng cho rằng diện tích khai quật vẫn còn nhỏ hẹp khiến việc nhận diện quy mô tổng thể của chùa Tĩnh Lự còn rất hạn chế. Do đó, các học giả đều thống nhất với những kiến nghị nhằm tiếp tục quan tâm bảo vệ di tích, mở rộng thu thập nghiên cứu và khai quật khảo cổ học ở ba cấp nền cùng với khu vực xung quanh núi Thiên Thai nhằm bổ sung tư liệu, xây dựng cơ sở vững chắc cho việc đề xuất các phương án bảo tồn và phát huy giá trị di tích trong thời gian tiếp theo.
Dưới đây là một số ý kiến đánh giá, đóng góp của các nhà khoa học:
Khẳng định tính chất “quốc tự”
(PGS.TS Bùi Minh Trí, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh thành)
Khảo cổ học tại Tĩnh Lự thể hiện rất rõ tính chất của một kiến trúc tôn giáo hoàng cung thời Lý thông qua hình ảnh di vật tượng uyên ương, mào chim phượng, bộ đầu đao... Điều thú vị hơn cả là sự xuất hiện của những mảnh đồ sứ cao cấp, rất đặc sắc trong hoàng cung Thăng Long, cho phép liên tưởng đến khả năng từng có những hoạt động nghi lễ triều đình diễn ra ở đây. Có thể thấy, chùa Tĩnh Lự hội tụ rất nhiều giá trị lịch sử văn hóa. Nếu được mở rộng khai quật nghiên cứu quy mô lớn chắc chắn sẽ trả lại nhiều giá trị hơn nữa của Tĩnh Lự trong lịch sử, đồng thời giải mã rõ ràng những kết quả đã tìm thấy. Ở Bắc Ninh hiện nay, ngoài chùa Phật Tích và chùa Dạm, còn có thêm một ngôi chùa hoàng gia-Tĩnh Lự mà bằng chứng khảo cổ học đã chứng minh.
Mở rộng nghiên cứu liên ngành để nhận thức toàn diện không gian văn hóa
(GS.TS Phạm Hồng Tung, Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội)
Dưới góc nhìn kết nối hệ thống sông cổ ở khu vực này, tôi gợi ra một số suy nghĩ về khu vực học: Trước thời Lý, khu vực chùa Tĩnh Lự là cái gì? Từ hệ thống kết quả nghiên cứu của nhiều người, tôi tin rằng, di tích này nằm trên chặng đường giao lưu thương mại, văn hóa từ đầu Công nguyên và có lẽ còn phải hơn nữa, do đó cần mở rộng khảo sát để có một hình dung đầy đủ hơn về diễn trình lịch sử từ trước Công nguyên, đầu Công nguyên rồi đến triều Lý, bởi không phải ngẫu nhiên có di tích mộ kiểu Hán ở đây.
Việc lập hồ sơ di sản phục vụ công tác bảo tồn cũng rất quan trọng và gắn liền với nó là câu chuyện phát huy giá trị. Trước hết phải có một quá trình vốn hóa các nguồn lực văn hóa dựa trên quy trình chặt chẽ đối với từng chi tiết vật thể, phi vật thể, sau đó mới có thể tính đến phát huy, tạo ra các giá trị gia tăng...
Kho báu Tĩnh Lự bắt đầu hé mở
(GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia)
Theo hình dung của tôi, những gì chúng ta trông thấy qua kết quả và hiện trường khảo cổ học hôm nay chỉ là sự khởi đầu. Kho báu Tĩnh Lự mới bắt đầu hé mở, còn nhiều câu chuyện với những giá trị lớn hơn đòi hỏi phải có một loạt kế hoạch nghiên cứu chuyên sâu, khoa học về tư liệu khảo cổ, các thư tịch thành văn đã ghi chép, về văn hóa, lịch sử, kể cả truyền thuyết dân gian... Bên cạnh tập trung nghiên cứu, xử lý tư liệu hậu khai quật thì ngay từ lúc này, di tích chùa Tĩnh Lự phải được nhìn nhận như một tài nguyên văn hóa quan trọng với tầm nhìn xa, tổng thể, làm sao cho di tích sống dậy, tham gia được vào đời sống đương đại. Tỉnh Bắc Ninh cần sớm tính toán phương án bảo vệ, có kế hoạch lập hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích cấp quốc gia, tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động các nguồn tài lực để phát huy giá trị di sản tốt hơn.
Bảo tồn, phát huy di sản xứng với công đức tổ tông
(GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)
Phải có vai trò, vị trí như thế nào thì Tĩnh Lự mới được xây dựng rồi trùng tu đi trùng tu lại nhiều lần như vậy! Ngay như thời Lê không quá coi trọng Phật giáo nhưng dấu tích ở Tĩnh Lự đã cho thấy có cả gốm sứ hoàng cung, chứng tỏ Tĩnh Lự vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong thời Lê, rồi đến Lê Trung hưng lại được xây dựng quy mô lớn mà tấm bia đá là một di sản vô giá.
Vấn đề đặt ra là tổ tiên chúng ta đã bằng mọi cách, mọi giá giữ được chùa Tĩnh Lự cùng các di tích, dấu tích qua suốt cả nghìn năm. Vậy thì đến nay, chúng ta có tiếp tục giữ được di tích không? Nếu như không giữ được, rõ ràng chúng ta không xứng đáng với tổ tông. Có lẽ cần tìm mọi cách để bảo tồn, phát huy giá trị không chỉ chùa Tĩnh Lự mà cả không gian văn hóa Thiên Thai, Thiên Đức... trên cơ sở nghiên cứu một cách bài bản, khoa học để phần nào đó đáp lại công đức tổ tông.
Thanh Lâm
Ý kiến ()