Làng Vọng Nguyệt (xã Tam Giang, huyện Yên Phong), như một dải lụa mềm mại trải dọc bên dòng sông Cầu “nước chảy lơ thơ”, bên dòng sông lịch sử đã phát lộ nhiều ngôi mộ cổ và hiện vật gốm từ thời Đông Hán. Cách Ngã Ba Xà vài cây số, nơi gần nghìn năm qua vẫn âm vang Tuyên ngôn bất hủ “Nam quốc sơn hà, nam đế cư”, ghi dấu chiến công oanh liệt chống Tống của dân tộc ta do Thái úy Lý Thường Kiệt lãnh đạo.
Khoảng năm mươi năm trước, làng Vọng Nguyệt vẫn còn 4 cổng xây bằng gạch, rộng khoảng 2 mét, dày 0,5 - 0,6 cm, 2 tầng, tầng trên là những dầm gỗ bắc vào tường, lát ván là nơi nghỉ ngơi của lực lượng tuần phòng, canh gác, cổng có 2 cánh gỗ, đóng bằng toang. Nối liền các cổng làng với nhau là hàng rào tre chạy xung quanh làng, bên trong hàng tre là con hào rộng, sâu, giữ nước quanh năm. Đây chính là chiến lũy vững chắc ngăn chặn nạn cướp bóc, giặc dã, gìn giữ cuộc sống bình yên cho dân làng. Con đường chính chạy từ đê sông Cầu qua đền, đến trước đình thì rẽ làm hai tạo thành một vòng tròn khép kín. Từ đường chính này rẽ sang 2 bên là các ngõ, mọi gia đình dù nhà làm theo hướng nào cũng đều có cổng ra ngõ. Làng có 2 chợ: chợ Bậu cách làng khoảng vài trăm mét họp ban ngày, năm sáu chục năm nay không còn nữa, chợ Trai không có lều, quán, họp vào lúc chạng vạng tối, đây là nơi mua bán những sản vật do người làng làm ra, phục vụ đời sống hàng ngày. Sự tiện lợi và hấp dẫn ở chợ Trai là có đủ mọi thứ từ cái kim, sợi chỉ, đến đồng quà tấm bánh và sản vật “cây nhà, lá vườn” đều còn tươi sống, mớ rau hái ở vườn ra còn đang ứ nhựa, mớ cá, mớ tôm vẫn nhảy tanh tách… Ngày nay chợ đã có một vài lều, quán và mua bán cả ngày, nhưng đông nhất vẫn là chập tối.
Con đường liên xã nối thị trấn Chờ với khu di tích lịch sử chống Tống tại Như Nguyệt, nay đã được trải nhựa, ô tô, xe máy bon bon vào tận đường làng. Điều ấn tượng nhất đối với mỗi người đi làm ăn xa nay trở về quê là sự giàu có đã hiện diện trên từng căn nhà. Làng có hơn 800 hộ, vài chục năm trước chỉ có một căn nhà hai tầng lợp ngói mũi, đã là người giàu có nhất làng, ai cũng lấy gương đó để khuyên bảo con cháu làm ăn, thì nay nhà hai tầng, ba tầng đã mọc lên hàng chục, hàng trăm. Không đồ sộ, sầm uất như phố làng Đồng Kỵ, nhưng kiến trúc đa dạng, nhiều ngôi nhà mang dáng dấp của những nhà vườn, có phòng sinh hoạt chung và tiếp khách, phòng cho ông bà, bố mẹ, phòng vệ sinh khép kín trong nhà… Trên con đường trục chạy vòng quanh làng, vài ba chục mét lại có ô tô du lịch đỗ. Đó là ô tô của các doanh nhân người làng thành đạt, một phần là taxi và xe của công chức, viên chức Nhà nước thuê xe tự lái đưa gia đình về thăm quê. Đại bộ phận gia đình đều có ti vi, xe máy, điện thoại.
Vọng Nguyệt là một trong những làng Việt cổ với những di sản văn hóa vật thể, đánh dấu những thăng trầm của một cộng đồng làng xã trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Chùa Vọng Nguyệt (tên chữ là Khai Nghiêm tự) do Nguyệt Sinh công chúa nhà Lý dựng. Đến thời Lê và Nguyễn chùa Khai Nghiêm được tu sửa lớn, dựng thạch trụ thiên đài vào năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705), đúc chuông đồng lớn vào năm Cảnh Thịnh thứ 7 (1799) và tạc nhiều pho tượng Phật. Đời Dụ Tông (1341-1369) Hàn lâm học sỹ Trương Hán Siêu soạn văn bia, khắc trên đá, kích thước 1,14m x 0,79m x 0,27m. Đọc văn bia, ngày nay người đời hiểu rõ hơn về cái nhìn của một nhà nho lớn đối với đạo Phật. Mặc dù vậy, sự ra đời và hưng thịnh của Phật giáo đã để lại cho hậu thế những di sản văn hóa đầy giá trị.
Đền làng Vọng Nguyệt nằm ở cuối làng, hiện còn hai tấm bia đá Bản thần bi ký (bia ghi sự tích của thần) dựng năm Dương Hòa thứ 8 (1642) và 36 đạo sắc phong ở đền, từ năm Dương Đức thứ 2 (1673) đến năm Khải Định thứ 9 (1924), cho biết đền thờ hai vị tướng thời Lý có công lãnh đạo đội dân binh làng Vọng Nguyệt chống giặc Tống là công chúa Lý Nguyệt Sinh-con gái vua Lý Thái Tôn và chồng là Phò mã Đô úy Chu Đình Dự. Đền Vọng Nguyệt cũ làm theo kiểu chữ tam, mỗi nếp nhà đều có ba gian, hai chái trải bao năm tháng, nay chỉ còn một tòa thượng điện gồm ba gian hai chái và hậu cung, nhưng các di vật trong đó được bảo quản khá nguyên vẹn.
Cả hai di tích này được dân làng tự nguyện đóng góp tiền của, công sức tu sửa, tôn tạo khang trang. Các hiện vật lưu ở đây là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo và một số văn bản Hán Nôm quý hiếm có giá trị lịch sử cao.
Ngày rằm, mồng 1 các cụ bà khăn, áo chỉnh tề lên chùa lễ Phật. Mồng một, mồng hai Tết nhà nào cũng thịt con gà trống đẹp nhất, sửa lễ đền, tưởng nhớ công lao của tiền nhân đã có công dẹp giặc, giữ nước và cầu cho một năm mới mưa thuận, gió hòa, làng xóm yên vui, thịnh vượng. Chuẩn bị cho ngày lễ đền đầu năm, từ 2, 3 tháng trước đã chọn con gà trống thiến to, khỏe đẹp mã, nuôi nhốt trong chuồng, trước mỗi bữa ăn đều xới bát cơm nóng, trộn với cám, viên thành từng viên bằng quả trám, bón từng miếng cho gà. Nhà nào nuôi được con gà trống thiến to, mỡ màng đem lễ đền thì mãn nguyện lắm vì hy vọng ở một năm mới gặp nhiều may mắn. Đây là nét đẹp văn hóa không biết có từ đời nào, đã thành tiềm thức trong ký ức mỗi người làng Vọng. Người Vọng Nguyệt thường giáo dục con cháu lẽ sống vì làng, vì nước, lấy gương những gia đình thành đạt, con cháu phương trưởng để noi theo, răn dạy con cháu sống hiếu nghĩa, làm điều nhân đức, không để tai tiếng với dân làng. Có lẽ triết lý “sống vì làng, vì nước” đã tạo cho người Vọng Nguyệt đủ sức đề kháng với những thói hư, tật xấu và các tệ nạn tiêu cực của cuộc sống đương thời.
Vọng Nguyệt là một làng có truyền thống hiếu học từ lâu đời, nổi tiếng với dòng họ Ngô. Từ Ngô Ngọc người đỗ tiến sỹ đầu tiên năm Đinh Mùi, đời Hồng Đức thứ 18 đến khoa thi cuối cùng của Triều Nguyễn (1906), họ Ngô làng Vọng Nguyệt có 64 người từ nho sinh, tú lâm đường, tú lâm cục đến tú tài, cử nhân, tiến sỹ. Nhà thờ họ Ngô đã được Nhà nước công nhận là di tích danh nhân, “thờ 5 tiến sỹ”. Nhiều năm qua, nhất là từ khi đất nước thống nhất, rồi tiến hành công cuộc đổi mới, đời sống của nhân dân được cải thiện, năm nào Vọng Nguyệt cũng có người thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. Năm 2006 có 43 em, năm 2007 có 51 em, năm 2008 có 43 em đỗ đại học và cao đẳng. Đến nay, Vọng Nguyệt có 217 người có trình độ đại học trở lên, 10 tiến sỹ, 7 thạc sỹ, 1 phó giáo sư. Đã bao đời nay, dân làng còn truyền tụng câu chuyện gia đình cụ Chánh Dung từ thời phong kiến đã bán ruộng đất để nuôi các con ăn học, ông Ngô Như Toàn, một trong những người con của cụ là tham tán canh nông, sau là Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Nông nghiệp Bắc Ninh, Hà Bắc, cả ông, các con trai, con dâu và 3 cháu nội đều tốt nghiệp đại học. Ông Phạm Gia Cửu, công tác tại Bộ Giáo dục và Đào tạo cả 3 bố con đều là tiến sỹ, có gia đình 2 vợ chồng đều là thạc sỹ, tiến sỹ. Những năm gần đây, dân làng ca ngợi gương bà Nguyễn Thị Thoa, một người đàn bà hơn 30 năm liền, ngày nào cũng như ngày nào thức khuya, dậy sớm, kẽo kẹt chai vai gánh chuối đi và về trên 20 cây số, lấy tiền nuôi 4 con ăn học, để rồi trong vòng 10 năm gần đây, bà lần lượt có 2 con là thạc sỹ, 2 con là cử nhân. Người làng Vọng ví chuyện bà Thoa như “một huyền thoại” bên sông Cầu.
Cũng như bao làng quê khác, trong cuộc trường chinh đồng hành cùng dân tộc, không phải không còn những vấn đề bức xúc, những thói quen không hợp thời cuộc, nhưng người Vọng Nguyệt tin ở tương lai, tin ở con đường mà Đảng đã lựa chọn, cùng nhau chung lưng, đấu cật, vượt qua những trở lực, cùng dân tộc, cùng đất nước hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Hồng Minh
Ý kiến ()