Trong bài viết “Anh Tú Mỡ bị Tây bắt” nhà văn Tô Hoài cho biết: sau Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất họp tại Chiêm Hóa ở Tuyên Quang năm 1949, ở đó nhà thơ Tú Mỡ được phong là Chiến sĩ thi đua ngành văn hóa. Nhà thơ về gia đình đang tản cư ở Bắc Giang.
“Có đến mấy tháng đã qua, chưa thấy anh Tú Mỡ về cơ quan (Hội văn nghệ tản cư lên chân dãy núi Tam Đảo ở làng Yên Dã, huyện Đại Từ trên Thái Nguyên) và cũng không có tin tức. Cũng không ai để ý. Trong kháng chiến, chúng tôi ở khuất nẻo và công tác phân tán. Mọi việc nhanh chậm đều do đôi chân, thật “ngày rộng tháng dài”. Nhà văn Tô Hoài kể tiếp:
Một hôm, thấy ai như anh Tú Mỡ đi từ ngoài cánh đồng vào lối cơ quan ở trong đồi. Anh Tú Mỡ, vóc người bé nhỏ, bước nhanh nhẹn. Đúng anh Tú Mỡ. Nhưng cách ăn mặc thì lại khác lạ quá, không phải Tú Mỡ quần áo nâu với cái nón lá mọi khi. Người này đội chiếc mũ sắt tùm hụp. Bộ quần áo xám xịt, nhiều túi, có cả hai cái túi bắt gà to kềnh trên đầu gối. Áo mũ của bọn com-măng- đô -Pháp. Đôi khi, thường thấy người vùng tề ra mặc như thế.
Người ấy đi gần đến nơi. Thì rõ ràng anh Tú Mỡ. Bấy giờ chúng tôi mới biết trong ngót hai tháng qua anh bị Tây bắt”1.
Chuyện nhà thơ Tú Mỡ bị Tây bắt được chính nhà thơ kể lại tường tận trên hơn 60 trang hồi ký với cái tên TÚ MỠ…CAI TÙ đã được công bố trong Tú Mỡ toàn tập (3 tập) do NXB Văn học xuất bản năm 2008 mới đây. Chuyện này còn được nhà thơ nhắc đến trong nhiều trang viết khác nhau của mình. Chẳng hạn trong bài Những bạn tri âm, bạn “ghi âm”: “Năm 1949, tôi bị giặc Pháp tóm được trong một trận ở Đức Thắng (Hiệp Hòa), khi tôi đi theo đội chèo Quyết Thắng của Ty Thông tin Bắc Giang. Giặc đem tôi về giam ở bốt Phù Lưu (huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh)…”2
Phải nói chuyện nhà thơ Tú Mỡ bị Tây bắt là một sự kiện đáng kể trong đời sống văn nghệ kháng chiến, gây cho nhiều người chú ý. Có điều khi nhắc đến nhiều người kể lại có phần không thật chính xác ở những chi tiết này chi tiết kia. Ngay như tác giả Tú Mỡ cũng còn có lần nhớ sai thời gian bị bắt. Như mở đầu đoạn trích trong bài “Những bạn tri âm, bạn “ghi âm” ở trên, chính tác giả kể: “Năm 1949, tôi bị giặc Pháp tóm được…” . Phải dựa vào Hồi ký Tú Mỡ - Cai tù mới công bố trong tập II toàn tập tác phẩm Tú Mỡ do NXB Văn học mới xuất bản năm 2008, từ trang 391-452: “Hôm ấy là ngày 19 tháng Ba năm 1950, lớp học tập chính trị tổ chức cho đoàn ca kịch Quyết Thắng của Ty Thông tin Bắc Giang vừa bế mạc. Tôi đề nghị với anh B, Trưởng ban Tuyên truyền để tôi đi theo đoàn một thời gian… Tôi theo đoàn ca kịch xuất phát lên đường. Chiều hôm ấy, chúng tôi đến Bắc Lý… Sáng hôm sau, trời chưa sáng rõ đã nghe thấy tiếng súng nổ xa xa…”.
Nhà thơ theo dân chúng chạy tóe ra cánh đồng, lạc mất đoàn ca kịch. Và rồi bị giặc tóm được cùng với cặp tài liệu. Giấy má lý lịch của nhà thơ ở cả trong cái cặp da, ông không thể nói dối được, đành phải nói thực với bọn chỉ huy giặc, hơi xuyên tạc một tý thôi. May mà trong đám sĩ quan chỉ huy có viên thiếu úy Tây lai và một người đội ta có lòng tốt thông cảm giúp một tay, nhà thơ biến báo che mắt được bọn chỉ huy cao hơn, vốn lười nhác, đại khái. Vì thế ông già “công chức quèn” được giải cùng đám người bị bắt về giam tại bốt Phù Lưu, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Riêng ở chỗ này cần nói rõ địa danh Phù Lưu-Từ Sơn-Bắc Ninh - chỉ có một. Phù Lưu, ở đây đích thị là làng Phù Lưu - Chợ Giầu, cách “bốt Từ Sơn chừng mười lăm phút,…vào trại Phù Lưu cách đấy độ năm trăm thước… Qua một con đường cái lát đá phiến xanh…”, chứ tuyệt không phải Phù Lưu Tế, hai lần nhắc đến trong bài viết “Con người nhân ái”3 của anh Hồ Viết Cường, con giai út của nhà thơ.
Qua cuộc hỏi cung bọn giặc tin là nhà thơ chỉ là một công chức cũ thời Pháp, đi tìm gia đình tản cư, do phải có kế sinh nhai cho mình và gia đình nên đành phải làm cho Việt Minh, nhưng cũng chỉ là anh thư ký quèn lo công văn giấy tờ. Thạo công việc lại giỏi tiếng Pháp nên bấy giờ bọn chỉ huy giao cho người tù già làm chân cai tù kiêm thông ngôn trong trại. Nhờ sự khéo léo biện bạch của Tú Mỡ và những người trong hàng ngũ giặc, nhưng vẫn còn lương tâm giúp đỡ và mọi bạn tù, là người dân chất phác, có cả du kích thật, đoàn kết nghe lời ông cai già, nên tai họa qua được. Mọi người được thả tự do. Theo lá đơn viết bằng tiếng Pháp nhà thơ thỉnh cầu cho được ra vùng tự do tìm gia đình tản cư đâu đó…cuối cùng ông cũng được cấp giấy thông hành qua bốt Chờ đi sang Hiệp Hòa, Bắc Giang và trở về cơ quan văn nghệ kháng chiến.
Vậy là Tú Mỡ đã có dịp sống ở trên đất Phù Lưu- chợ Giầu đến hai tháng trời. Tuy bị giam lỏng trong trại mà vẫn thoát tay giặc. Giờ đây, qua hơn nửa thế kỷ Phù Lưu-Chợ Giầu bây giờ đã lên phố Phù Lưu, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn. Nhà cửa được tu sửa lại, xây dựng thêm càng khang trang. Khách thập phương đến vẫn trầm trồ đi trên con đường lát đá phiến xanh từ cng Bắc chạy suốt dọc phố chính xuống đến đầu làng cổng cũ phía Nam. Đường chính bốn viên rộng thênh thang, rẽ vào các ngõ “răng bừa”, đường lát hai viên…
Ngôi nhà mà bọn chỉ huy đồn Phù Lưu hơn sáu mươi năm trước đây đóng trụ sở vẫn còn giữ nguyên vẹn, được tu sửa, ở giữa phố chính, gần đình, chùa, mang số 84, vừa được tu sửa khai trương làm Nhà lưu niệm “Văn học Nga ở Việt Nam” - một điểm văn hóa mới góp vào nhiều di tích văn hóa vốn có của làng Giầu - Phù Lưu, nổi tiếng từ xa xưa khắp cả vùng Kinh Bắc.
Nhà thơ Tú Mỡ một lần nữa lại có mặt ở trên đất Phù Lưu.

Ngôi nhà Tây lấy làm trụ sở chỉ huy đóng đồn khi ấy còn giữ được cho đến tận ngày nay. Xây hai tầng chắc chắn bằng gạch, cốt sắt xi măng trên một khuôn viên rộng rãi có sân, vườn. Theo bà con thế hệ cao tuổi sống tại Phù Lưu cho biết: ngôi nhà này của ông bà cả Ngườm, nhờ buôn bán tần tảo, tích cóp mà xây được từ đầu những năm 40 thế kỷ trước. Ông bà chỉ có một cậu con trai duy nhất gửi ra Hà Nội ăn học, lại sớm chết vì tai nạn xe điện ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Vào thời điểm đó, đất nước có nhiều biến chuyển, ông bà cả Ngườm bỏ vào Sài Gòn rồi đi biệt tung tích. Hòa bình lập lại ngôi nhà được chính quyền địa phương quản, sử dụng vào các việc khác nhau, từ trụ sở công an địa phương sau đó lại cho ở nhờ. Người ở nhờ được chia đất mới chuyển đi. Vừa hay biết tôi là người làng, sau cả cuộc đời công tác thoát ly gắn bó với văn học Nga có một bộ sưu tập lớn về văn học Nga ở Việt Nam, tuy lâu nay công tác ở ngoài Hà Nội nhưng vẫn gắn bó nơi làng quê cũ, nên lãnh đạo và bà con địa phương ưu ái giao cho tu sửa làm ngôi nhà lưu niệm “Văn học Nga” ở Việt Nam”. Chính ngôi nhà mà hơn nửa thế kỷ trước Tây đã chiếm đóng đặt sở chỉ huy đồn Phù Lưu của chúng và trong một thời gian ngắn nhà thơ Tú Mỡ sa cơ buộc phải cộng tác. Từ khi khai trương vào dịp kỷ niệm 65 năm quan hệ hữu nghị Việt Xô - Việt Nga và thành lập Hội Hữu nghị Việt - Xô, ngày truyền thống Hội Hữu nghị Việt-Nga, ngày 27 - 5 - 2015, đến nay được hơn một năm.
Trong bộ sưu tập sách báo liên quan đến quan hệ Việt Nam - Liên Xô và Việt Nam - Liên bang Nga có nhiều hiện vật quý hiếm gắn với tên tuổi Tú Mỡ. Trước hết phải kể đến những bài viết của nhà thơ sáng tác ngay sau chuyến đi trong đoàn đại biểu các tri thức, văn nghệ sĩ Việt Nam lần đầu tiên chính thức thăm Liên Xô ngay sau khi đất nước giành thắng lợi trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống xâm lược Pháp 1946-1954. “Nói chuyện về văn nghệ sĩ Liên xô”, viết ngày 20.11.1954 và “Phát biểu ý kiến về bức thư của nhà văn Cholokov” viết ngày 26 tháng 12 năm 19554 cùng với Hồi ký “Tú Mỡ…cai tù”5. Tiếp theo bài thơ “Bắt quàng làm họ” ký tên Tú Mỡ, đăng ngay ở đầu trang báo Văn học số 160 ra ngày 18 tháng 8 năm 1961 dưới tiêu đề chạy dài suốt hai trang báo: “Hoan hô kỳ công tuyệt vời của anh hùng phi công vũ trụ Liên xô thiếu tá Ti tốp!”. Bài thơ chỉ có 15 câu lục bát ca ngợi thành tựu khoa học Liên xô phóng thành công hai con tầu “Phương Đông I”, “Phương Đông II” mang người lên vũ trụ buộc Mỹ phải làm thân, gắn tên tuổi của các phi công vũ trụ Mỹ Xê pớt và Gonitxơn bên cạnh tên tuổi Gagarin, Ti tốp của Liên xô.
Ở tủ kính bầy sách tại đây còn có bản sao tập bản thảo viết tay tập thơ có tên “Chuyến đi dối già” của Tú Mỡ hoàn thành sau chuyến đi thăm Liên xô lần thứ hai, năm 1970. Tập bản thảo viết tay (bản chính: trong một cuốn vở học sinh Liên xô được trưng bày trong tủ bản thảo gốc đặt ở tầng trên) có tới 24 bài thơ và một phụ lục truyện dân gian Nga được nhà thơ kể lại bằng thơ song thất lục bát. Tập bản thảo thơ có lẽ gửi tới báo Văn nghệ để đăng vì sau đó trên báo Văn nghệ số 280 ra ngày 22 tháng 1 năm 1971 đã công bố Truyện cổ tích xứ Krimê Liên xô (Núi gấu) do Tú Mỡ sáng tác, và báo Văn nghệ số 445 ra ngày 21 tháng Tư năm 1972 đã công bố chùm thơ ba bài: Chào Mạc Tư khoa! Từ giã Yan-Ta mến khách và Thăm quê hương của Tôn-xtôi.
1. Tú Mỡ Thơ và đời, NXB Văn học 1995, trang 280-281
2. Tú Mỡ toàn tập, Tập II, NXB Văn học 2008, trang 908
3. Tú Mỡ toàn tập, I.II, NXB Văn học, 2008, trang 863
4. Tú Mỡ toàn tập, ba tập, tập III trang 103-120 , và 121-123
5. Và tập II, từ trang 391-452
Ý kiến ()