Dòng sông chảy xiết. Những gợn sóng nâu hồng nặng trĩu phù sa. Nước tràn bồi đắp nên cánh đồng màu mỡ. Mưa rào mát ngọt. Cỏ năn, cỏ lác, lau sậy mọc lên như rừng.
Ngọn núi Tiên bên sông như bờ vai vững chắc. Dòng sông là tấm lụa quàng mềm mại. Núi sông, cánh đồng đã hình thành thắng địa hữu tình.
Những con đại bàng từ đâu bay về đỉnh núi. Chim thiên nga trên đường di trú Bắc Nam bán cầu, dừng chân bên đầm hồ đầy rong rêu tôm cá.
Cánh đồng đêm, tiếng ếch nhái dưới trăng. Tiếng vạc kêu sương hoang vắng…
Thế rồi, một hôm có đoàn người đóng bè chuối, bơi thúng mủng từ bờ bên kia của con sông sang đây khai phá, lập làng mới… Gia tài tay nải trên vai. Chồng dắt vợ, con dắt cha, quang gánh thúng mủng, nồi đồng niêu đất, dao cuốc xăm xăm… tràn vào miền đất phù sa xâm xấp như cháo đặc.
Lưỡi “phảng” cắt lau sậy. Lưỡi cuốc phập xuống phù sa. Mồ hôi tưới nhuyễn đất. Hạt thóc giống gieo xuống. ngọn đòng đòng lúa non ngọt lịm. Bông thóc xanh lên hương cốm non. Nắng vàng đậu xuống những ngọn lúa thành chuỗi vàng dòng li ti. “Vàng dòng kim loại” không nhai nuốt vào bụng được. Nhưng vàng ròng lúa chín trôi qua cổ họng nuôi cơ thể sống. Không có nó, chết ngay. Người đang chết đói ngắc ngoải, một muỗng cháo nấu từ thứ vàng ròng này đổ vào, lập tức sống lại…
Cả cánh đồng rộng đến chân trời đang tràn ngập thứ vàng nuôi người. Chất vào quang gánh, đặt lên vai, kĩu kịt về nhà. Đổ vàng ròng vào bồ, để ăn dần… Mùa gặt làm làng bừng lên sức sống. Chồng gánh lúa trĩu vai. Vợ gánh lúa xệ cổ áo hở ra yếm đỏ vú trắng nõn nà.
Mái rạ vàng ngào ngạt hương đồng. Ngọn đèn dầu đêm ấm cúng. Chồng ngồi bên vợ say điếu thuốc lào, say chuyện làm ăn.
Họ có cần gì nhiều đâu… Làng mới, sáng ra chim hót ríu ran ngoài rặng tre. Mùi hoa cau thơm ngát. Chú gà trống gáy vang trên cành lựu đỏ. Người chồng dắt trâu ra đồng. Người vợ cào đống rạ hoai mục…
Trưa hè, vợ về đồng, khỏa chân trên cầu ao đầy hoa sen trắng. Chân vợ cũng trắng như hoa sen. Chồng rít điếu thuốc lào giòn tan, lơ mơ nghe tiếng cu cườm gáy trưa. Vợ ăn miếng trầu say, má đỏ hồng…
Nắng hè qua, rồi đến gió đông. Những con chim sẻ rét mướt chúi vào mái bếp sưởi ấm. Người vợ đi cấy về hơ bàn tay giá lạnh trên bếp trấu ủ, đầu ngả vào vồng ngực vạm vỡ của chồng, làm nũng. Vòng tay chồng cảm nhận được vòng eo bắt đầu tròn căng của người vợ đã mang thai.
Những thế hệ làng nối tiếp nhau ra đời nhanh như lau sậy trên phù sa. Rồi một ngày kia, các sân nhà đầy tiếng trẻ nô…
Loáng một cái mà lịch sử làng đã trải mấy trăm năm… Giếng nước bèo ong trong vắt, những cô gái mặc yếm trắng hở vai trần đẫm ánh trăng đi gánh nước đêm… Cây đa cổ thụ cổng làng, người đi xa nhìn về xao xuyến. Mái đình cong vút, đêm hội tắt đèn cho trai gái chen nhau, yếm đào bị dứt đứt tung vương vãi trên sân. Có Hội Chen, làng mới hòa cốc phong đăng, không thì mất mùa, dịch bệnh đói kém, đi ăn mày cả lũ.
Chùa làng vẳng tiếng chuông chiều ngân nga, gọi người ta về với thế giới từ bi, bác ái, vô vi, trong sạch.
Chợ làng náo nức, hàng gạo nếp trắng ngần, hàng lò rèn bập bùng ánh lửa, dao cuốc đỏ rực ra lò, tôi xèo xèo trong nước lạnh. Ông đồ già ngồi bán câu đối tết. Chị tôi đi chợ, bao xanh vạt áo đựng gió trời, chị bán vầng mây, mua mưa hoa đựng trên nón trăng.
Cánh đồng mưa bụi giăng giăng, tháng giêng tấp nập người trồng đỗ trồng cà. Tháng năm, chiền chiện hót véo von trên luống cày. Tháng mười chim ngói bay về, heo may rải đồng…
Cánh đồng thẳng cánh cò bay. Bóng mẹ tôi đi cấy như bóng cò lặn lội. Người mê mẩn với đất, vầy vò với đất… Đêm qua tát nước đầu đình/Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen… Cô gái bắt được chiếc áo. Áo sứt chỉ, cô gái vá hộ, và chàng trai trả công: một thúng xôi vò, một con lợn béo một vò rượu tăm (đồ dẫn cưới)… Hỡi cô tát nước bên đàng/Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi. Tát nước mệt chết người mà tả thơ mộng thế. Tháng một là tháng trồng khoai/Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà… Thế tháng nào là tháng lấy nhau? Tháng hè nằm ôm nhau nóng lắm. Chờ đến sang thu, chờ đến tháng ba, nắng thu như mạng nhện chăng trên da mặt, tháng ba nắng lặn vào thịt da con gái…
Ngày cưới, trẻ con giăng dây tơ hồng bằng sợi chỉ bên ngõ lối. Người con dâu bước về nhà chồng gia giáo. Ngôi nhà ngói đại khoa âm u, tam đại đồng đường, nếp nhà thi thư, ông dậy cháu sách Tam Tự kinh, bài học đầu tiên: Nhân chi sơ, tính bản thiện…
Đứa cháu thiên tư áo gấm đỏ, tóc trái đào, rồi đến ngày vinh quy bái tổ “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau”… Làng bắt đầu có Hội Tư Văn, chỉ những người biết chữ mới được vào. Còn xã trưởng, trọc phú cường hào vô học, đứng ngoài…
Có một người thi đỗ, nhưng có cả chục ngàn người thi trượt. Trượt rồi thành đồ gàn, vợ nuôi, nghêu ngao ngất ngưởng rong chơi, làm thơ cho ả đào ca hát. Làng đêm xuân, tiếng trống chầu tom chát, tiếng hát nhừa nhựa khàn khàn của kỹ nữ về già, cuống cuồng khao khát.
Tháng giêng là tháng ăn chơi, tội gì các cô gái chả ăn chơi. Những gánh ả đào nghiệp dư, đi khắp vùng, hát kiếm ăn. Những đồng bạc “thướng” lạch xạch rơi xuống đĩa, các cô chia nhau, dắt vào gấu váy, đem về cho chồng con.
Cả năm theo trâu cày, tháng giêng các bác lực điền được đội mũ cánh chuồn, mặc áo thụng vàng, tàn lọng che đầu, đi rước vòng quanh ngõ trúc ao bèo. Những bà thợ cấy, má phấn môi son, khăn vành dây, áo công chúa, bước vào Hội tế. Một phút, cả làng “thăng hoa”…
Tháng giêng là tháng ăn chơi/Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè…
Gớm ăn chơi “đập phá” nghe phát khiếp… Nhưng thực ra là nói cho oai thế thôi, chứ tiếng ve vừa gọi, đã vội ra đồng, trên đồng cạn dưới đồng sâu/chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Những “công chúa Hội Tế” chân dầm bùn, kẽ sưng tấy, đêm về phải đốt giẻ hơ khô. Buột lạt vào lưng đi cấy cho khỏi rét. Còn các “quan đại thần” Hội rước thì nón lá áo tơi quần nhau với đất cày, lấm như ma chôn ma vùi.
Có thế mới có tháng mười, thóc về, vỏ trấu mở ra như cánh hoa sen, hạt gạo trắng ngà như hạt ngọc long lanh. Hạt gạo, hạt cơm được gọi là “ngọc thực”. Đứa trẻ đánh rơi hạt cơm, mẹ bảo phải nhặt lên đút vào miệng. Nếu không, sẽ phải tội…
Làng quê đơn sơ mà thơ mộng. Nếu tôi không yêu say đắm nó, tôi không có trái tim. Đây là mượn danh ngôn của người khác, nhưng nếu tôi không biết đáng tiếc những cái gì đáng tiếc của làng quê, tôi không có khối óc…
Con đường nhỏ xíu chạy quanh quanh dưới bóng tre xanh, bóng ai nón lá ba tầm quẩy gánh lúa vàng thơ mộng. Nhưng giá như con đường rộng gấp năm gấp mười, có bánh xe quay, bánh xe hình tròn, tải sức nặng, chứ không phải vai gầy mẹ tôi…
Chú bé thiên tư đọc sách Thánh hiền, thơ phú véo von, đỗ đạt làm quan, vinh quang lắm… Nhưng giá như có thêm những chú bé thông minh khác, chẳng thích làm quan, mà chỉ say sưa nghĩ ra những cái gì giống như bánh xe tròn, tạo ra lực gì thay lực cơ bắp, chứ không chỉ say sưa đẽo chiếc đòn gánh dài.
Bác lực điền làm ra hạt thóc vàng, quý lắm! Nhưng phải có thêm bác lái buôn đem thóc đi bán và mang về những thứ cần thiết khác. Phải có thêm các “ông chủ” biết tổ chức chỉ huy các “bác thợ” để cùng làm ăn. Nhà vua xưa đừng ban sách “Trọng nông ức thương”…
Giá như tự ngàn đời, những người tài giỏi của làng được dân bầu là người chỉ huy, chứ không phải là những ông xã trưởng ngu dốt, lè nhè xôi thịt, những ông quan mới chỉ chỉ huy một huyện đã được gọi là quan “phụ mẫu” (cha mẹ dân) toàn quyền quyết định số phận người khác, và xử án bằng cách bắt dân nằm sấp cho lính lệ cầm gậy to bằng cổ tay đánh nát đít dân.
Giá như tục lệ nào loại bỏ được thói chỉ thích hư danh, huyênh hoang, khuyếch khoác. Làng quê đừng tôn vinh những giá trị hão huyền, lý thuyết suông đẽo chân cho vừa giày. Làng quê đừng sợ quá các ông thần trong miếu mạo mà công tích mơ hồ là đã đánh thắng Chăn tinh hay Hà bá…
Hàng trăm chữ “giá như”, hàng trăm chữ “nếu”.
Chữ “nếu” không thể dùng cho quá khứ. Nhưng có thể dùng cho tương lai…
Những bác dân quê làng tôi, đâu biết chế tạo ra súng. Cùng lắm họ chỉ biết giã than xoan trộn với diêm sinh làm pháo tép. Nhưng rồi hàng ngàn người làng tôi đã phải cầm súng để chống lại những kẻ từ phương trời nào đến đây áp bức…
Máy bay siêu âm của xứ sở nào, bay đầy bầu trời quê tôi, bầu trời vốn chỉ có sếu giang di trú ghé qua, tệ lắm chỉ là mấy con diều hâu dữ tợn xà bắt gà con. Chứ không phải Chim gì mà dội trăm ngàn tấn bom lên lũy tre xanh, lên mái rạ vàng …
Ngọn núi làng tôi, tên là Núi Tiên, dân làng nhất loạt bảo chính mắt mình đã từng nhìn thấy những bầy tiên bay xuống tắm suối, da thịt sáng bừng cả trời đất. Và lại còn có bác tiều phu lên núi, mải xem hai ông tiên đánh cờ, xong ván cờ, nhìn xuống thấy cán rìu của mình đã mục nát, và khi về làng thì thời gian đã trôi qua bẩy đời...
22/12/2015
Ý kiến ()