Nhằm tạo diễn đàn để các cơ quan quản lý, các địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học trao đổi, thảo luận, Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW chủ trì, phối hợp với Tỉnh ủy Bắc Ninh tổ chức Hội thảo “Phát triển công nghiệp và đô thị vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Hội thảo thu hút nhiều luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW và Kết luận số 13-KL/TW của Bộ Chính trị. Đây là cơ sở giúp Ban Chỉ đạo tổng kết tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chủ trương, định hướng nhằm phát triển vùng ĐBSH thời gian tới. Báo Bắc Ninh giới thiệu một số tham luận của các chuyên gia, nhà quản lý tại hội thảo.
Hướng phát triển công nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
(Ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công Thương)
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia giai đoạn 2021-2030 đã xác định phương hướng phát huy lợi thế vùng thúc đẩy cơ cấu lại các ngành kinh tế. Theo đó, VĐBSH tập trung phát triển một số ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ là: Điện tử, sản xuất phần mềm, trí tuệ nhân tạo, sản xuất ô tô, công nghiệp phụ trợ, logistics, ngân hàng… phấn đầu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2021-2025 từ 15 - 15,5%; giai đoạn 2026 - 2035 từ 13- 13,5%. Để đạt được mục tiêu trên, các tỉnh thành trong vùng nói chung và Bắc Ninh nói riêng cần chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước (vốn từ đấu giá quyền sử dụng đất, vốn doanh nghiệp, dân cư và các nguồn huy động khác như phát hành trái phiếu công trình…) để đầu tư phát triển. Đặc biệt là đầu tư kết cấu hạ tầng (hệ thống đường cao tốc kết nối liên tỉnh, cảng biển, công trình cung cấp điện, nước và công trình xử lý rác thải nguy hại) cho toàn vùng. Từ đó kết nối đồng bộ với hệ thống kho hàng, bến bãi, trung tâm logistics tạo sự liên hoàn từ nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào đến sản xuất công nghiệp, phân phối sản phẩm và người tiêu dùng cuối cùng. Ngoài ra, cần chủ động phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng liên tỉnh, tập trung phát triển nguồn nhân lực song song với tái cơ cấu các ngành công nghiệp vùng theo hướng hiệu quả, bền vững. Ưu tiên phát triển các loại hình doanh nghiệp công nghiệp sạch, xanh, công nghiệp vừa và nhỏ...Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch; tuân thủ phân bố không gian và liên kết, tận dụng tối đa lợi thế của từng địa phương, hạn chế việc đầu tư chồng chéo gây lãng phí và phát huy hiệu quả của các dự án đầu tư nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp toàn vùng.
Tái cấu trúc hệ thống đô thị phù hợp xu thế phát triển liên kết
(Ông Lê Quang Hùng, Thứ trưởng Bộ Xây dựng)
Hệ thống đô thị vùng ĐBSH có vai trò là động lực phát triển kinh tế quan trọng nhất cả nước, dân số đô thị chiếm 24% dân số đô thị cả nước và GRDP đóng góp là 31.6%. Chỉ tính riêng 4 trung tâm đô thị động lực vùng ĐBSH là thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh, Bắc Ninh đã đóng góp 60% dân số đô thị và 56,7% GRDP của cả vùng ĐBSH. Tuy nhiên, việc phát triển đô thị tại vùng còn nhiều hạn chế, tập trung chủ yếu tại tiểu vùng phía Bắc, đô thị hóa diễn ra chậm ở tiểu vùng phía Nam, trừ thành phố Hà Nội. Hầu hết các đô thị loại I trong vùng không đạt mục tiêu về quy mô dân số như quy hoạch đã đề ra. Nhằm khắc phục hạn chế và đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng cường liên kết, phát triển cả chiều sâu trọng tâm, tại các đô thị động lực trung tâm vùng, đô thị vệ tinh cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả vai trò vĩ mô của Nhà nước trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch và thực hiện quy hoạch hệ thống đô thị vùng ĐBSH. Đặc biệt là nâng cao chất lượng Quy hoạch vùng ĐBSH, Quy hoạch vùng Thủ đô, Quy hoạch tỉnh để tái cấu trúc hệ thống đô thị phù hợp xu thế phát triển liên kết lãnh thổ, hành lang kinh tế, mạng lưới hạ tầng trong khu vực. Đồng thời, đổi mới quy chuẩn, tiêu chuẩn, ban hành quy chuẩn địa phương, hướng dẫn theo mô hình đô thị nén, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đô thị, không gian cao tầng gắn hệ thống giao thông công tại khu vực tái thiết, khu đô thị mới, đô thị sinh thái, đô thị sáng tạo, đô thị thích ứng biến đổi khí hậu.
Dành nguồn lực thỏa đáng đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số
(Ông Phan Tâm, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông)
Thực hiện định hướng phát triển chuyển đổi số quốc gia, các tỉnh trong vùng ĐBSH đã ban hành Nghị quyết về Chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 và các kế hoạch thực hiện để phục vụ cho chuyển đổi số ở cả 3 trụ cột “Chính quyền số - kinh tế số - xã hội số”. Qua đó, đã truyền đi thông điệp cam kết mạnh mẽ của các tỉnh trong chiến lược “tăng tốc” chuyển đổi số toàn diện, đáp ứng nhu cầu của “công dân số”. Trong bảng xếp hạng về chuyển đổi số do Bộ Thông tin và Truyền thông công bố các địa phương thuộc vùng ĐBSH đều đạt mức cao so với bình quân chung cả nước. Tuy vậy, trong thực tiễn triển khai việc phát triển thông tin và truyền thông của vùng ĐBSH còn một số hạn chế đó là hạ tầng kỹ thuật chưa được đầu tư đầy đủ so với nhu cầu; việc quy hoạch, triển khai hạ tầng viễn thông còn thiếu đồng bộ, đặc biệt giữa hạ tầng viễn thông và các hạ tầng kỹ thuật khác; nguồn lực đầu tư cho công nghệ thông tin chưa đáp ứng yêu cầu phát triển… Để các địa phương trong vùng ĐBSH hoàn thành các chỉ tiêu về phát triển kinh tế số và xã hội số đã đề ra trong Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, các địa phương cần dành nguồn lực thỏa đáng (về tài chính, nhân lực) để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Thực hiện chương trình mỗi người dân một điện thoại thông minh, mỗi gia đình một đường Internet cáp quang, mỗi hộ gia đình một địa chỉ số. Triển khai 5G tại các KCN để hỗ trợ sản xuất thông minh, cũng như sẵn sàng nền tảng đón làn sóng đầu tư công nghệ cao. Đồng thời tiếp tục đẩy nhanh việc đưa dịch vụ công lên trực tuyến, sớm triển khai để đạt 100% dịch vụ công trực tuyến của các tỉnh lên mức độ 4.
Xác định quy mô, loại hình dự án FDI theo ngành, lĩnh vực phù hợp toàn vùng và từng địa phương
(Ông Phan Hữu Thắng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Viện Nghiên cứu đầu tư quốc tế)
FDI là một trong các động lực phát triển của nền kinh tế (chiếm bình quân tới 25% tổng vốn đầu tư, trên 70% tổng giá trị xuất khẩu hàng năm của cả nước). Nhưng động lực từ việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lại phát triển không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố, địa phương có thị trường, có cơ sở hạ tầng tốt, dễ tìm kiếm nguồn lực lao động. Vốn FDI đầu tư vào Việt Nam hiện không theo đúng danh mục dự án gọi vốn quốc gia cũng như danh mục dự án gọi vốn của các địa phương. Việc Quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước chưa cụ thể hóa được loại hình, quy mô dự án FDI theo lĩnh vực, ngành nghề trên từng địa bàn. Vì vậy, công tác quy hoạch phát triển đầu tư nước ngoài phải đi trước một bước, trong quy hoạch đó phải xác định rõ trước quy mô, loại hình dự án FDI theo ngành, lĩnh vực trên từng vùng, từng địa phương và được đưa vào trong quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước trong giai đoạn tới. Hiện nay, Quy hoạch vùng ĐBSH thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 cần thực hiện việc tổ chức, sắp xếp lại không gian vùng theo hướng sử dụng nguồn vốn FDI có trọng tâm, trọng điểm để phát huy được lợi thế của từng địa phương trong vùng nhưng vẫn bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững. Đồng thời khắc phục được sự thiếu liên kết, cạnh tranh trong thu hút FDI thời gian qua giữa các địa phương trong vùng. Đối với Quy hoạch tỉnh, thành phố phải bảo đảm phù hợp với Quy hoạch vùng. Dành quỹ đất để thực hiện các dự án ưu tiên đầu tư của vùng và liên tỉnh. Thực sự coi khu vực kinh tế FDI là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế. Danh mục dự án ưu tiên đầu tư của tỉnh, thành phố cần xác định rõ yêu cầu về công nghệ và đối tác đầu đầu tư để có kế hoạch chủ động mời gọi, xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo đó, tiêu chí đánh giá sự thành công của từng địa phương về hợp tác đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới không phải là số vốn FDI thu hút được mà là mức độ hoàn thành được đúng quy hoạch thu hút FDI theo quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội địa phương đã được phê duyệt.
Tái cấu trúc và tổ chức không gian, xây dựng hệ thống đô thị thống nhất
(KTS. Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam)
Vùng ĐBSH là nơi hội tụ nhiều lợi thế, thuận lợi trong ᴠiệᴄ thựᴄ hiện 3 đột phá ᴄhiến lượᴄ ᴠề thể ᴄhế, kết ᴄấu hạ tầng ᴠà nguồn nhân lựᴄ. Hệ thống đô thị trong vùng cũng phát triển nhanh, hình thành mạng lưới các đô thị lớn trong mối liên kết với các KCN, khu kinh tế, các trung tâm giáo dục đào tạo, y tế lớn cấp vùng...với hệ thống cảng biển, sân bay và các cửa khẩu quốc gia, quốc tế. Các đô thị lớn như thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Hạ Long, thành phố Bắc Ninh...được đầu tư, quy hoạch mở rộng, phát triển đảm nhận vai trò là các đô thị động lực quan trọng trong mối liên kết vùng. Trong vùng cũng đã hình thành nhiều đô thị mới như: Thành phố Từ Sơn (Bắc Ninh), Chí Linh (Hải Dương), Duy Tiên (Hà Nam)... Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị trong vùng vẫn còn nhiều hạn chế. Đô thị hoá và phát triển đô thị chưa gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với quá trình công nghiệp hoá, xây dựng nông thôn mới. Mối liên kết vùng còn yếu. Tỷ lệ đô thị hoá đạt được thấp hơn mục tiêu đề ra…Vì vậy, việc phát triển hệ thống mạng lưới đô thị và nông thôn vùng ĐBSH giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo hướng phải bảo đảm: Phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc gia và quy hoạch ngành có tầm nhìn dài hạn, sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái; phát triển đô thị nén, tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng đất, theo hướng tăng trưởng xanh, thông minh, bền vững. Trong đó, khung giải pháp tổng thể gồm: Tái cấu trúc và tổ chức không gian, xây dựng hệ thống đô thị thống nhất hiệu quả, toàn diện, năng động, có sức cạnh tranh cao; tăng cường liên kết vùng và kết nối đô thị - nông thôn; nâng cao chất lượng đô thị, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, cải thiện điều kiện sống cho dân cư đô thị; phát triển đô thị xanh, thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu và có bản sắc; đổi mới mô hình chính quyền đô thị, nâng cao năng lực, quản lý phát triển đô thị theo hướng hiệu quả, thực chất...
Giải pháp phát triển đô thị để tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương
(Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hương Giang)
Sau 25 năm tái lập tỉnh và 17 năm thực hiện Nghị quyết 54 của Bộ Chính trị, Bắc Ninh từ 1 tỉnh nông nghiệp đã phấn đấu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại với nhiều chỉ tiêu về kinh tế- xã hội đạt cao. Những kết quả quan trọng trong quá trình phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị Bắc Ninh làm tiền đề hướng tới mục tiêu thành phố trực thuộc Trung ương. Đối chiếu theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định tiêu chuẩn thành phố trực thuộc Trung ương gồm 5 tiêu chuẩn, tỉnh Bắc Ninh có 3 tiêu chuẩn dự kiến đạt được là: Tiêu chuẩn về quy mô dân số (từ 1,5 triệu người trở lên); tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên; Tiêu chuẩn về số đơn vị hành chính và tỷ lệ quận trên tổng đơn vị hành chính đạt trên 60% (dự kiến có 5 quận/8 đơn vị hành chính). Hiện có 2 tiêu chuẩn đang tập trung phấn đấu là: Tiêu chuẩn được công nhận là đô thị loại đặc biệt hoặc loại I; Tiêu chuẩn cơ cấu trình độ phát triển kinh tế - xã hội (mức tăng trưởng kinh tế trung bình 3 năm gần nhất đạt bình quân của cả nước; thu nhập bình quân đầu người/năm; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị).
Xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của vùng với cả nước và của từng địa phương trong vùng ĐBSH, đặc biệt với mục tiêu phát triển đô thị để tỉnh Bắc Ninh sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, Bắc Ninh đề xuất một số nhóm giải pháp về: Cơ chế, chính sách đầu tư; hoàn thiện quy hoạch đô thị toàn tỉnh và đề án nâng cấp các đô thị Bắc Ninh đến năm 2030; phát triển kinh tế, công nghiệp có các chức năng cấp vùng Thủ đô, cấp quốc gia, quốc tế; tập trung đầu tư xây dựng các khu đô thị, từng bước hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội các đô thị hiện đại, thông minh, bền vững; ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin quy hoạch, đầu tư phát triển và quản lý đô thị thông minh; bảo vệ môi trường.
Thái Uyên- Đức Anh
Ý kiến ()