Thành phố Bắc Ninh từng ngày đổi mới.
Khu Thành cổ bây giờ trở nên khiêm nhường nằm yên ả ở một góc phía tây bắc thành phố. Gọi là khiêm nhường, bởi dường như vẫn nguyên cái nét cổ kính rêu phong khi xưa, để nhường chỗ cho mạn đông, mạn nam là những tuyến phố hiện đại, được quy hoạch như ô bàn cờ, đẹp như trong mơ. Một Trung tâm văn hoá bề thế mang tên Kinh Bắc với kiến trúc mang nét riêng miền Quan họ, nằm trong một không gian hài hoà và đặc biệt là công năng sử dụng với nhiều tiện ích vừa truyền thống vừa hiện đại. Những con đường rợp bóng cây xanh, vỉa hè thông thoáng và giao thông trật tự, nền nếp. Trụ sở cơ quan Nhà nước, những khu chợ, nhà hàng, khu dân cư… đều được quy hoạch với tầm nhìn bảo đảm tính thẩm mỹ, hài hòa với không gian, tiện ích và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Chính vì điều này mà Bắc Ninh được đánh giá là một trong những đô thị được quy hoạch tốt nhất cả nước.
Một cảm nhận về Bắc Ninh yên bình, không mấy khi ùn tắc giao thông, không mấy trường hợp lấn chiếm hành lang giao thông để phải xử phạt tôi đã được nghe từ trước khi về. Dân gian vẫn bảo: “Cán bộ đi trước, làng nước theo sau”. Với Bắc Ninh thì điều này thật đúng. Nhiều cán bộ từ lãnh đạo đến nhân viên các công sở đều thực hiện giảm đến mức thấp nhất việc đi làm bằng xe máy, mà thay vào đó là sử dụng các phương tiện công cộng, nhất là xe bus. Chỉ trong mấy năm trở lại đây, ngoài các tuyến xe bus nội thành, các tuyến xe bus đã phủ khắp đến các huyện, thị; rồi nối với cả các tỉnh lân cận, tạo thành một chuỗi giao thông công cộng thông thoáng, liên hoàn. Người từ các quận, huyện giáp ranh thuộc Hà Nội, Bắc Giang, Hải Dương… đều có thể về Bắc Ninh bằng xe bus với tần suất vài chục phút một lần.
Xe bus cũng là loại phương tiện góp phần thúc đẩy du lịch. Du khách có thể chỉ cần rất ít tiền cũng thoả sức đi dọc sông Đuống, sông Cầu thưởng ngoạn vẻ đẹp của miền quê Quan họ trên bến dưới thuyền, rồi có thể vào tận trung tâm các làng nghề truyền thống nổi tiếng cả nước như: gốm Phù Lãng, mộc Đồng Kỵ, tranh Đông Hồ, đồng Đại Bái… Hoặc có thể từ Đền Đô, đi xe bus xuôi về Phật Tích, Lăng Kinh Dương Vương, chùa Bút Tháp, chùa Dâu,… theo hành trình du lịch tâm linh hoặc từ Bến Bình Than đi Đền Đô, Lim… theo hành trình du lịch lịch sử văn hoá.
Từ cấp xã, phường trở lên, “một cửa liên thông hiện đại” luôn là nơi người dân yên tâm khi đến yêu cầu giải quyết những công việc liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Tất cả guồng máy được vận hành một cách đồng bộ và trơn tru, thông thoáng nhất có thể. Có lẽ vì làm tốt việc này, mà mấy năm nay, Bắc Ninh được đánh giá là một trong số những địa phương rất ít chuyện tụ tập đông người khiếu kiện, hoặc khiếu kiện vượt cấp lên Trung ương.
Người ta vẫn nhắc đến việc giải quyết câu chuyện ở Phù Chẩn, Châu Khê (Từ Sơn) dạo nọ. Khi người dân bức xúc, khiếu kiện đông người về đền bù đất, giải phóng mặt bằng, xử lý chất thải. Cả hệ thống chính trị “vào cuộc”. Mỗi tổ chức có thế mạnh riêng, nhưng người ta nhớ nhất là khi có màu áo bộ đội về làng. Họ “ba cùng” với dân, tuyên truyền, thuyết phục dân, không cho kẻ xấu lợi dụng làm điều quá khích. Khi làng xóm yên ổn, những khúc mắc được tháo gỡ, bộ đội lại chia tay từng nhà, bắt tay từng người, không ít ánh mắt nhìn ươn ướt…
Chuyện “điểm nóng” bây giờ “xưa” rồi, nhưng không vì thế mà cán bộ, bộ đội không về với dân, trái lại, công tác dân vận, xây dựng cơ sở, bám dân, luôn là vấn đề được lãnh đạo các cấp, các đơn vị quan tâm đặc biệt. Bởi, hơn lúc nào hết, Bắc Ninh cũng như cả nước, phát triển kinh tế phải đi liền với giữ vững sự ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng-an ninh, không thể để cho kẻ thù lợi dụng, phá hoại…
Mặc dù, do sự phát triển kinh tế-xã hội nhanh, còn chỗ này, chỗ khác, có lúc phức tạp, nhưng trong tôi luôn có một cảm nhận rằng, ở miền Quan họ này, đã và đang có được một thế trận lòng dân vững chắc. Mà dân ở đây được hiểu, không chỉ người dân Bắc Ninh mà gồm hàng chục ngàn người từ ngoại tỉnh đến làm việc tại các khu công nghiệp, sống ở các khu dân cư; các doanh nhân, người nước ngoài đến Bắc Ninh đầu tư, làm ăn-họ đều được đối xử công bằng như người dân bản địa; và họ thật sự thấy an tâm, thoải mái như được sống và làm việc chính trên quê hương, đất nước của mình.
Tôi đã được tiếp xúc với nhiều người dân, từ dân vùng nông thôn, công nhân lao động khu công nghiệp, đến giám đốc các doanh nghiệp,… dù là người dân lao động, doanh nhân, trí thức hay cán bộ lãnh đạo, công chức; dù là công dân Bắc Ninh chính hiệu hay những người ngoại tỉnh, người nước ngoài đều hiển hiện ánh mắt, nét mặt vui vẻ biểu thị sự đồng thuận cao với lãnh đạo, chính quyền và hướng đi của Bắc Ninh. Điều này đã thuyết phục sự tò mò trong tôi là tại sao Bắc Ninh có nhiều khu công nghiệp; lượng người ngoại tỉnh, doanh nghiệp, người nước ngoài nhiều như thế, mà việc quản lý xã hội vẫn rất tốt, nhất là khi xảy ra sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép dàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam, đây đó có động thái không được tốt, gây thiệt hại kinh tế-xã hội của đất nước, nhưng Bắc Ninh vẫn luôn bình yên và an toàn, giữ vững được ổn định, tiếp tục phát triển, là điểm sáng thu hút đầu tư quốc tế đến Việt Nam.
Cũng lại chuyện… lãnh đạo. Đó là sự học hỏi. Với Bắc Ninh, việc cử các đoàn đi học kinh nghiệm lẫn nhau, học ở các tỉnh, thành trong nước và nước ngoài như: Malaysia, Singapore, Trung Quốc, các nước châu Âu,… để vừa học tập, vừa mở rộng quan hệ đối ngoại, kêu gọi đối tác đầu tư, mở rộng thị trường nội địa là chuyện thường. Học ra học, không phải là “cưỡi ngựa xem hoa”. Mỗi chuyến đi đều có thu hoạch rõ ràng, không phải là chuyện chơi chơi. “Đi thăm các tỉnh, thành bạn, sang các nước để học cách quản lý xã hội, cách thức làm ăn, quản lý, thu hút vốn đầu tư,v.v… về hội thảo, ta rút kinh nghiệp điều gì, ứng dụng được điều gì, để rồi tìm hướng đi cho Bắc Ninh nói chung, từng khu vực, địa phương trong tỉnh nói riêng”. Đó là lời của một lãnh đạo tỉnh trong một hội nghị quan trọng về phát triển kinh tế-xã hội. Câu chuyện học này liên quan dù trực tiếp hay gián tiếp cũng là kết quả của sự phát triển, thu hút mạnh đầu tư.
Với một tỉnh mà diện tích đất đai nhỏ nhất nước, mật độ dân số đứng thứ 3 cả nước (chỉ sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh), nhưng Bắc Ninh lại là mảnh đất vàng thu hút đầu tư. Hiện cả tỉnh đã có 15 khu công nghiệp, 32 cụm công nghiệp, 1 khu công nghệ cao, năm qua Bắc Ninh vẫn thu hút thêm hàng vài tỉ đô la đầu tư mới. Những nhà đầu tư lớn như Samsung, Canon, Microsoft, ABB,… đã và đang tăng cường các dự án đầu tư lớn cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Bắc Ninh cũng là địa phương giữ vững và phát triển các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp với các làng nghề vừa giữ được sản phẩm truyền thống đã hình thành và phát triển hàng nghìn năm nay, không bị thất truyền, vừa phát triển đảm bảo đủ sức cạnh tranh trên thị trường cả trong và ngoài nước. Bắc Ninh có kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đứng thứ 2 toàn quốc (chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh) và quy mô GRDP (tổng sản phẩm trên địa bàn) đứng thứ 6 toàn quốc. Đây quả là con số biết nói. Thật đáng khâm phục.
Tôi rất tâm đắc khi biết rằng, Bắc Ninh đang tích cực xây dựng mô hình nông nghiệp đô thị, doanh nghiệp nông nghiệp và liên kết sản xuất theo mô hình chuỗi giá trị trong nông nghiệp từ “sản xuất giống-thức ăn-gia công-thu mua-chế biến-phân phối”. Và điều đó đã trở thành hiện thực, hiện nay, các vùng khoai tây, vùng cà chua; vùng cà rốt; vùng hành, tỏi… được hình thành và ngày càng nâng cao sản lượng, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, có ý nghĩa rất lớn về kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Nhìn những cánh đồng ngô, dâu xanh mướt bên dòng sông Đuống, gợi cho tôi nhớ đến câu chuyện chàng thanh niên trí thức Hoàng Xuân Sơn (Quế Võ) sau khi tốt nghiệp cao học “không muốn” làm cán bộ nghiên cứu ở Hà Nội mà về Bắc Ninh thuê đất của nông dân để trồng khoai tây. “Chuyện thật như đùa”, nhưng lại rất hay, rất đáng suy ngẫm. Chàng thanh niên đã đưa tri thức vào sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội rất cao; và chính anh đã chứng minh sức mạnh của tri thức trong đời sống, khẳng định một hướng đi mới cho phát triển nông nghiệp hiện đại ở Bắc Ninh. Thạc sĩ Hoàng Xuân Sơn đã thực sự xứng đáng là tấm gương tiêu biểu của trí thức doanh nghiệp trẻ của Bắc Ninh thời kỳ mới.
Qua câu chuyện này, tôi hiểu thêm về lý do tại sao người nông dân của chúng ta sản xuất nông nghiệp còn nhiều khó khăn, gian nan, vất vả, giá trị lao động nông nghiệp quá thấp, tình trạng nông dân bỏ ruộng, ly hương còn nhiều. Thực tế cho thấy, nhiều sản phẩm nông nghiệp không phải là thiếu đầu ra, hoặc là do giá thành bất hợp lý, mà cái chính do sản xuất chưa đúng quy trình, sản phẩm chưa đạt quy chuẩn, sản xuất manh mún, tự phát, thiếu tập trung, doanh nghiệp thu mua sản phẩm của nông dân gặp khó khăn, vướng mắc nhiều thứ, trong khi đó, nếu doanh nghiệp nhập hàng ngoại (tất nhiên, theo con đường chính thống) thường đạt quy chuẩn, thuận tiện cho kinh doanh, phân phối.
Những “bài toán” nan giải với Bắc Ninh không phải là không có. Cái tốt, cái hay, cái tích cực còn chưa chiến thắng tuyệt đối cái lạc hậu, trì trệ, tiêu cực. Đó là điều mà không chỉ riêng ai trăn trở. Nhưng cứ nhìn cái sự trật tự nền nếp của dòng người lên xuống xe bus; cái sự nhịp nhàng của những cỗ máy nơi công trường xây dựng khu công nghiệp tôi gặp; sự ngút ngàn của những cánh đồng khoai tây, cà chua, hành tỏi… nơi tôi đi qua; cái nét tươi duyên trong màn hát múa Quan họ tôi vừa xem ở Lăng Kinh Dương Vương… cảm nhận rõ được những dòng chảy xuôi chiều và sự cộng hưởng với quyết tâm của lãnh đạo, chính quyền và nhân dân Bắc Ninh đang nỗ lực đưa Bắc Ninh đi lên, trở thành thành phố giàu đẹp, hiện đại, văn minh, giàu bản sắc.
Ý kiến ()