Vào dịp Tết đến Xuân về, mỗi người có thú thưởng Xuân theo cách riêng của mình: người đi lễ chùa cầu phúc, cầu tài, cầu lộc; người có thú viết câu đối, làm thơ mừng xuân,... cũng có người có thú tìm hiểu những giá trị của hoành phi, câu đối, văn bia trong các cơ sở thờ tự cổ kính của quê hương.
Là người có thú tìm hiểu văn hóa cổ của quê hương, trong bài này, chúng tôi xin hầu chuyện quý bạn đọc bằng những hiểu biết ít ỏi của mình về văn bia vùng đất Kinh Bắc-Bắc Ninh. Theo kết quả điều tra của chúng tôi, tỉnh Bắc Ninh có khoảng 2.700 văn bia (riêng văn bia có chủ đề bầu hậu gửi giỗ là 2.293 đơn vị). Tìm hiểu nội dung số văn bia ấy, chúng tôi thấy chúng có nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa và nhân văn sâu sắc.
Giá trị lịch sử và giá trị tư liệu
Văn bia Bắc Ninh cung cấp cho người đọc biết được một số chức danh trong hệ thống chính quyền thời Lê-Nguyễn
Một số chức danh trong hệ thống chính quyền thời Lê-Nguyễn cho đến nay đã không còn tồn tại. Chẳng hạn, ở cấp xã (tương đương với đơn vị thôn ngày nay) có chức Lý trưởng, Phó Lý. Bộ phận giúp việc có: Trưởng bạ (phụ trách về những việc có liên quan đến ruộng đất), Hộ lại (phụ trách những việc có liên quan đến hôn nhân giá thú, khai sinh khai tử, tạm trú tạm vắng), Thư ký (phụ trách các công việc đến binh, dịch, sưu thuế, phu phen). Cấp tổng (tương đương với một xã lớn hoặc liên xã ngày nay) có Cai tổng, Tổng trưởng (đến thời Nguyễn đổi là Chánh tổng), Phó tổng. Cấp huyện có Tri huyện, Huyện thừa (cấp phó của Tri huyện), Huyện lệnh, Huyện doãn. Người phụ trách việc học của huyện gọi là Huấn đạo. Cấp phủ (cấp trung gian giữa tỉnh và huyện) có Tri phủ, Đồng Tri phủ. Người phụ trách việc học gọi là Giáo thụ. Ở cấp tỉnh, người đứng đầu gọi là Tổng đốc, người giúp việc về hình án gọi là Án sát, người phụ trách về hành chính gọi là Tuần phủ, người phụ trách về quân sự gọi là Lãnh binh, phụ trách việc học gọi là Đốc học,...
Văn bia thời Nguyễn, còn thấy xuất hiện các chức danh: Hương trưởng, Chánh Hương hội, và các tổ chức mang ý nghĩa chính trị: Hội đồng kỳ mục, Hội đồng Tộc biểu.
Tìm hiểu văn bia ở Bắc Ninh, chúng ta cũng biết được tình hình sử dụng ruộng đất và tính minh bạch trong quản lý ruộng đất thời Lê- Nguyễn
Đọc gần 3.000 văn bia, chúng tôi thấy hầu như bia nào cũng đề cập đến vấn đề ruộng đất. Mọi việc liên quan đến xây dựng, trùng tu cơ sở thờ tự (đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ họ,...) đến việc bầu hậu gửi giỗ, giải quyết kiện tụng, tiếp đón quan trên,... đều phải dùng đến ruộng đất.
Do ruộng đất đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống mọi mặt của người dân làng xã nên trong việc quản lý ruộng đất của từng hộ, từng thửa đất,... văn bia thể hiện rất rõ tính minh bạch của nó. Đọc văn bia khi nói đến từng thửa ruộng, chúng tôi thấy người soạn văn bia đều ghi rất tường tận thửa đất đó rộng mấy mẫu, mấy sào, mấy thước, mấy tấc; Đông, Tây, Nam, Bắc giáp những đâu. Đặc biệt, văn bia “Thánh Ân tự Tam bảo điền” dựng năm 1586 tại chùa Thánh Ân, thôn Kênh Phố, xã Cao Đức, huyện Gia Bình, còn ghi rõ các cạnh của thửa ruộng dài mấy con sào. Tính minh bạch còn thể hiện ở chỗ, tất cả các trường hợp bầu hậu gửi giỗ tại các cơ sở thờ tự đều được bàn bạc thống nhất trong làng, bao gồm các vị quan viên, hương lão, Lý, Phó trưởng và mọi người trên dưới, lớn bé trong làng. Những người này và đại diện của dân đều phải ký vào biên bản cuộc họp có nội dung bàn về việc đó.
Văn bia thời Lê-Nguyễn giúp chúng ta biết ít nhiều về tình hình tôn giáo đương thời
Thời Lê-Nguyễn, Nho giáo phát triển đến cực thịnh, tác động đến mọi mặt đời sống của người dân trong xã hội, nhưng đọc văn bia, chúng tôi mới thấy được ở phạm vi làng xã, Phật giáo có sức chi phối không nhỏ đến đời sống tinh thần làng xã, đặc biệt là nữ giới. Nếu ở chốn đình trung và trong quản lý làng xã, Nho giáo có sức chi phối đáng kể thì trong đời sống tín ngưỡng và từ thiện, Phật giáo lại hầu như hiện diện ở mọi công việc, chi phối mọi suy nghĩ và việc làm của người phụ nữ.
Văn bia thời Lê Nguyễn giúp chúng ta biết được cách ghi ngày tháng, năm của ngày xưa
Ngoài số rất ít văn bia ghi rõ ngày, tháng năm, còn hầu hết chỉ ghi “cốc nhật”, “cát nhật”, hoặc “Sóc”, “Vọng” hoặc ngày “Phúc sinh”, còn tháng thì ghi theo cách ghi “Mạnh”, “Trọng”, “Quý” của các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông hoặc là “Cúc nguyệt”, “Liên nguyệt”. Năm thì ghi niên hiệu cộng với số năm tại vị của hoàng đế đương thời cộng với Can Chi của năm đó. Cách ghi này buộc người đọc phải có chút ít kiến thức về văn hóa truyền thống khi tiếp cận với văn bia.
Giá trị văn hóa
Tìm hiểu văn bia thời Lê-Nguyễn ở Bắc Ninh, chúng tôi thấy ở đó chứa đựng nhiều giá trị văn hóa mà không phải vật mang tin nào cũng có được.
Trước hết là hình dáng bia.
Bia ở Bắc Ninh thời Lê-Nguyễn hầu như đều được tạo bằng loại đá xanh ít gân và nhìn chung, đều có trán bia, diềm bia và đế bia. Nhưng đi vào cụ thể thì chúng có nhiều hình dáng khác nhau: tứ diện, dẹt, có mái, không mái; có một số bia trên đỉnh mái có bình cam lồ (giống như bình cam lồ trên đỉnh một số ngọn tháp Phật). Đồng thời có trang trí họa tiết trên trán bia, diềm bia và đế bia. Ở trán bia thường có khắc hình lưỡng long (hoặc song phượng) chầu mặt trời kèm theo đám mây lửa; diềm bia thường trang trí dây cúc hoặc hoa điểu, hoặc lộc điểu,... đế bia thường chạm cánh sen cách điệu, hoặc sóng nước,... Những họa tiết này là mô típ trang trí phổ biến trên các bia thời Lê-Nguyễn.
Tìm hiểu giá trị văn hóa của văn bia Bắc Ninh, chúng tôi còn thấy các văn bia giúp chúng ta thấy được cách viết kỵ húy của một số chữ, bằng cách thay đổi trật tự của các bộ trong chữ, thêm chữ “khẩu” hoặc dấu “nháy cá” ở phía trên con chữ. Nhiều văn bia còn cho chúng ta biết một số chữ được khắc theo lối dị thể (khác với nguyên tắc thường dùng) và cách viết đài đối với những chữ mang tính tôn xưng (chữ “Phật”, chữ “Hoàng đế”, chữ “Thiên”,...), bằng cách những chữ đó lẽ ra đang ở giữa dòng, nhưng được viết lên đầu dòng sau và cao hơn một chữ. Đây cũng là một trong những đặc điểm của văn hóa chữ viết thời cổ ở nước ta (và Trung Quốc) mà các ngôn ngữ hiện đại không có.
Giá trị giáo dục và nhân văn
Tìm hiểu văn bia Bắc Ninh, chúng tôi thấy nổi lên ở đó giá trị giáo dục truyền thống hiếu học, khoa bảng và giá trị nhân văn rất sâu sắc.
Về giá trị giáo dục truyền thống hiếu học và khoa bảng: với sự kiện Lê Văn Thịnh đỗ đầu kỳ thi Minh kinh bác sĩ đầu tiên ở nước ta (năm 1075), có thể nói, Bắc Ninh là nơi phát tích của truyền thống hiếu học và khoa bảng của cả nước. Truyền thống hiếu học và khoa bảng ấy được duy trì và phát huy cho đến mãi sau này. Phản ánh về điều này, văn bia ở văn miếu Bắc Ninh và văn bia tại văn chỉ hàng huyện, hàng tổng, hàng xã và của các dòng họ cho chúng ta biết điều đó. Theo số liệu thống kê của chúng tôi, hiện tại, tỉnh Bắc Ninh có 39 văn bia tại văn chỉ hàng xã, hàng tổng, hàng huyện và 15 văn bia có đề cập đến truyền thống hiếu học và khoa bảng ở Văn miếu Bắc Ninh (trong đó có 12 văn bia ghi danh các vị đỗ đại khoa của vùng Kinh Bắc từ thời Lý đến thời Nguyễn).
Nội dung các văn bia ở Bắc Ninh nổi lên ý nghĩa giáo dục đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cho tất cả các thế hệ người trong cộng đồng. Trong số các văn bia mà chúng tôi tìm hiểu, có đến hơn 2.293 văn bia có nội dung bầu hậu gửi giỗ. Người bầu hậu gửi giỗ và người được bầu hậu, gửi giỗ có mối quan hệ rất đa dạng: có thể là tự mình bỏ tiền ruộng để được bầu hậu và gửi giỗ cho mình, có người là vợ chồng, mẹ con gửi giỗ cho nhau. Đặc biệt, có môn sinh bỏ tiền ruộng để gửi giỗ cho thầy dạy (văn bia “Hậu kỵ bi ký” khắc năm 1864 ở đình thôn Đồng Sép, huyện Tiên Du), có người gửi giỗ cho bố mẹ vợ (văn bia “Ký kỵ bi” khắc năm 1873 ở đình thôn Xuân Đồng, thành phố Bắc Ninh) có người gửi giỗ cho chồng cũ, có người mẹ vợ gửi giỗ cho con rể, con chồng gửi giỗ cho mẹ kế, bố gửi giỗ cho con trai và con dâu, cháu gửi giỗ cho ông bà ngoại,... Có thể nói ở loại này, mỗi văn bia là một mối quan hệ, một cảnh ngộ của người đương thời mà khi đọc chúng, người đọc không khỏi xúc động.
Lại có một số văn bia phản ánh về việc hàng xóm gửi giỗ cho người cùng xóm (Văn bia “Ngoại tộc bi ký” khắc năm 1867 ở đình làng Tư Thế, huyện Thuận Thành). Những nội dung văn bia trên đây có ý nghĩa giáo dục tính nhân đạo cho cộng đồng làng xã rất cao.
Tóm lại, văn bia Bắc Ninh có giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, giá trị giáo dục và giá trị nhân văn rất đáng trân trọng.
Nguyễn Quang Khải
Ý kiến ()