II. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay
1. Giai đoạn từ năm 1993 đến trước khi Luật thi hành án dân sự 2008 được ban hành
Trong giai đoạn này, Quốc hội Khóa IX ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 266-TTg ngày 02/6/1993 về việc triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự; liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 26/5/1993 hướng dẫn việc bàn giao công tác thi hành án dân sự.
Những cơ sở pháp lý quan trọng này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cải cách về công tác thi hành án dân sự từ đó đến nay.
Trên cơ sở Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 quy định các cơ quan Thi hành án dân sự gồm có Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp; các Phòng Thi hành án cấp quân khu và tương đương. Ở Trung ương có Cục Quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
Trong thời gian này, công tác thi hành án dân sự ngày càng trở nên nặng nề hơn. Các cơ quan thi hành án dân sự được bổ sung nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định về kinh tế, lao động, quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính; bản án, quyết định của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành; giá trị tiền, tài sản phải thi hành ngày càng lớn, tính chất ngày càng phức tạp.
Ngày 14/01/2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 với nhiều đổi mới quan trọng về thi hành án dân sự, trong đó có cả đổi mới về tổ chức, cán bộ các cơ quan thi hành án dân sự và trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Trên cơ sở của Pháp lệnh này, ngày 11/4/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự. Theo quy định của Nghị định số 50/NĐ-CP, Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ quan trọng như tổ chức áp dụng thống nhất pháp luật về thi hành án dân sự trong toàn quốc, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý theo ngành dọc đối với cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện. Các cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện, từ chỗ là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp trở thành hệ thống cơ quan tương đối độc lập.
2. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay
Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày 14/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm 2008, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay. Tiếp theo đó, ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự. Theo đó, Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự được xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp. Theo quy định của Nghị định số 74/NĐ-CP, ở Trung ương, Tổng cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước và quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật; cấp tỉnh có Cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và cấp huyện có Chi cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Cục Thi hành án dân sự.
Ngày 24 tháng 11 năm 2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật Tố tụng hành chính, trong đó quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm quản lý và thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính. Theo quy định tại Luật này, Bộ Tư pháp có trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án hành chính. Cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính trên phạm vi toàn quốc.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, ngày 23/11/2012, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 37/2012/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013. Mới đây Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về công tác Tư pháp, trong đó có thi hành án dân sự; Chính phủ có Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, trong đó có giao nhiệm vụ cụ thể về thi hành án dân sự.
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, ngày 25/11/2014 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự. Ngày 20/7/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, các văn bản này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
Nhìn lại lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển trong gần 70 năm qua có thể thấy bề dày truyền thống, sự lớn mạnh, trưởng thành của hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và những nỗ lực, cố gắng không biết mệt mỏi của cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan Thi hành án dân sự. Ngày 05 tháng 3 năm 2013 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 397/QĐ-TTg công nhận ngày 19 tháng 7 hàng năm là Ngày Truyền thống Thi hành án dân sự, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự nói riêng và ngành Tư pháp nước nhà nói chung.
III. Thành tựu đạt được trong 70 năm xây dựng và trưởng thành
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo sâu sát của Lãnh đạo Bộ Tư pháp, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và ngoài nước, các cơ quan thi hành án dân sự đã trở thành một phần quan trọng trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là lực lượng không thể thiếu của hệ thống thực thi pháp luật. Đội ngũ người làm công tác thi hành án dân sự ngày càng lớn mạnh, chuyên nghiệp. Vị thế của các cơ quan Thi hành án dân sự đã được nâng lên. Công tác thi hành án dân sự ngày càng chuyển biến rõ rệt. Sự phát triển của các cơ quan Thi hành án dân sự trong những năm qua được ghi nhận qua những thành tựu nổi bật sau đây:
1. Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế
Giai đoạn 1946-1992: Giai đoạn này Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân đã tham mưu trình Chính phủ, Quốc hội ban hành và tự ban hành theo thẩm quyền 30 văn bản quy phạm pháp luật để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
Từ 1993 đến nay, Cục Quản lý Thi hành án dân sự trước đây và Tổng cục Thi hành án dân sự hiện nay đã tham mưu cho các cấp có thẩm quyền ban hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự và 54 văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Các quy phạm pháp luật đã điều chỉnh cơ bản các lĩnh vực của công tác thi hành án dân sự, từ tổ chức bộ máy, trình tự, thủ tục thi hành án, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong công tác thi hành án dân sự, kiểm sát, giám sát hoạt động thi hành án dân sự ... Đến nay, hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự đã tương đối đầy đủ, hoàn chỉnh, rõ ràng, đáp ứng được yêu cầu của công tác thi hành án dân sự, đồng thời thể chế hóa cơ bản những định hướng của Đảng về phát triển ngành Thi hành án dân sự trong tình hình mới.
2. Kiện toàn hệ thống tổ chức, cán bộ các cơ quan thi hành án dân sự
Từ tháng 6 năm 1993 trở về trước, công tác thi hành án dân sự do Toà án nhân dân các cấp đảm nhiệm, Toà án vừa làm nhiệm vụ xét xử, vừa trực tiếp tổ chức thi hành án (trừ Toà án nhân dân tối cao). Tại kỳ họp thứ nhất ngày 6-10-1992, Quốc hội Khóa IX đã ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ, đồng thời, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự 1993 làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống cơ quan thi hành án dân sự và hình thành cơ chế quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự và tổ chức thi hành án dân sự.
Từ 2004 - 2008, các cơ quan thi hành án dân sự đã có những thay đổi căn bản về tên gọi và vị thế. Từ 2009 đến nay là giai đoạn có nhiều đổi mới quan trọng trong công tác tổ chức bộ máy. Cơ quan Thi hành án dân sự gồm có: Tổng cục Thi hành án dân sự, 63 Cục Thi hành án dân sự và 710 Chi cục Thi hành án dân sự.
Tháng 7-1993, các Toà án địa phương chính thức bàn giao công tác thi hành án sang các cơ quan thuộc Chính phủ với số lượng 1.126 người, trong đó có 700 Chấp hành viên. Đến hết năm 2002, các cơ quan thi hành án dân sự trong toàn quốc có 4.357 công chức trên tổng số 5.183 biên chế được phân bổ.
Từ 2009 đến nay, Chấp hành viên được bổ nhiệm theo ba ngạch sơ cấp, trung cấp và cao cấp. Ngoài ra, chức danh Thư ký thi hành án dân sự cũng được bổ sung mới ở giai đoạn này. Tính đến hết ngày 30-9-2015, các cơ quan Thi hành án dân sự đã thực hiện được 9.681/9.957 biên chế. Cả nước hiện có tổng số 4.128 Chấp hành viên, 607 Thẩm tra viên, 1.731 Thư ký thi hành án. Các cơ quan thi hành án trong Quân đội hiện có 36 Chấp hành viên và 25 Thẩm tra viên.
3. Kết quả thi hành án tăng cả về số việc và tiền
- Tổng số việc thụ lý giai đoạn 1993-2003 là 1.727.927 việc, đã giải quyết xong là 1.439.673 việc. Đến năm 2003 đã giải quyết xong 186.721 việc trong tổng số 304.179 việc có điều kiện thi hành, đạt tỉ lệ 61% (tăng 16% so với năm 1993).
- Tổng số việc thụ lý giai đoạn 2004 - 2008 là 1.696.716 việc, đã giải quyết xong là 1.381.768 việc/1.696.716 việc. Năm 2008 đã thi hành xong 355.757 việc trong tổng số 462.294 việc có điều kiện thi hành, đạt tỉ lệ 77% (tăng 14% so với năm 2004, tăng 32% so với năm 1993).
- Tổng số việc thụ lý giai đoạn 2009 - 2012 là 1.804.381 việc, đã giải quyết xong là 1.592.549 việc/1.804.381 việc. Kết quả thi hành về việc so với số có điều kiện giai đoạn này tăng mạnh, nhất là từ năm 2009 trở lại đây (sau thời điểm Luật Thi hành án dân sự 2008 có hiệu lực). Cụ thể: năm 2009, đã thi hành xong 351.143 việc trong tổng số 430.026 việc có điều kiện thi hành, đạt tỉ lệ 82%; Năm 2012, thi hành xong 390.725 việc trong tổng số 439.127 việc có điều kiện thi hành, đạt tỉ lệ 89% (tăng 7% so với năm 2009, tăng 26% so với năm 2004, tăng 44% so với năm 1993).
Từ năm 2013 hệ thống cơ quan thi hành án dân sự tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chỉ tiêu về thi hành án dân sự theo các Nghị quyết của Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và công tác thi hành án và đã đạt được những kể quả tích cực (Năm 2013: Đã thi hành xong 492.975 việc, đạt tỷ lệ 86,53%; Năm 2014: Đã thi hành xong 531.095 việc, đạt tỷ lệ 88,47%; Năm 2015: Đã giải quyết xong 533.985 việc, đạt tỷ lệ 89,08%).
4. Cơ sở vật chất, trang thiết bị được tăng cường
Tại thời điểm tháng 7-1993 khi bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa án sang thì cơ sở vật chất như: Trụ sở, phương tiện làm việc hầu như không có gì để bàn giao vì bản thân Tòa án thời điểm đó cũng hết sức khó khăn, thiếu thốn.
Khắc phục khó khăn trong từng giai đoạn, đến nay, cơ sở vật chất, trang thiết bị đã được đầu tư, đổi mới căn bản. Tính đến năm 2015, trong tổng số 773 cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã có 722 đơn vị được đầu tư xây dựng trụ sở (60 trụ sở cấp tỉnh và 662 trụ sở cấp huyện) và 239 đơn vị được đầu tư xây dựng kho vật chứng (55 kho vật chứng cấp tỉnh và 184 kho vật chứng cấp huyện). Các Cục Thi hành án dân sự tỉnh và một số Chi cục Thi hành án dân sự được trang bị đầy đủ phương tiện làm việc nhằm mục tiêu tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự.
5. Kết quả thi đua, khen thưởng
Trong những năm vừa qua Đảng, Nhà nước, Bộ Tư pháp đã tặng nhiều phần thưởng cao quý cho các tập thể, cá nhân trong toàn hệ thống. Cụ thể là:
- Về hình thức khen thưởng: Từ năm 1993 đến nay, toàn Hệ thống có 39 tập thể và 73 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Lao động các hạng; 113 tập thể và 231 cá nhân được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 1.944 lượt tập thể và 5.003 lượt cá nhân được tặng Bằng khen cấp Bộ, Ngành, tỉnh.
- Về danh hiệu thi đua: Từ năm 1993 đến nay, toàn Hệ thống có 15 tập thể được tặng Cờ thi đua Chính phủ; 2 cá nhân đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc; 389 lượt tập thể được tặng Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh; 275 lượt cá nhân được công nhận Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh và nhiều danh hiệu, hình thức khen thưởng khác. Ngoài ra, còn nhiều cá nhân được khen thưởng danh hiệu Chiến sỹ thi đua, tập thể lao động xuất sắc, nhiều tấm gương học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự...
IV. Định hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới
Phát huy truyền thống và những thành tựu đã đạt được trong những năm qua, trong thời gian tới, toàn hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao.
1. Tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội Đảng các cấp của bộ, ngành, địa phương; hoàn thành các yêu cầu, nhiệm vụ về thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc hội khóa XIII về công tác Tư pháp, Nghị quyết số 107/2015/QH13 của Quốc hội khóa XIII về thực hiện chế định Thừa phát lại.
2. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự và các luật liên quan như: Bộ luật dân sự (sửa đổi), Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi), Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), Luật Tố tụng hành chính. Hoàn thiện thể chế, đảm bảo các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành sớm phát huy hiệu quả, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tạo chuyển biến căn bản trong công tác thi hành án dân sự; trong đó đặc biệt quan tâm, chú trọng phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành Trung ương khẩn trương xây dựng, ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung ngay trong năm 2016; chủ động, tích cực tham gia góp ý, hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến công tác thi hành án dân sự, hành chính.
3. Hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ về thi hành án dân sự năm 2016 và giai đoạn 2016 - 2021 theo Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc hội khóa XIII về công tác Tư pháp, Quyết định giao chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự hàng năm của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đặc biệt là chỉ tiêu thi hành án xong về việc, về tiền được Quốc hội giao; tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, phức tạp, kéo dài, những vụ việc liên quan đến tín dụng ngân hàng, phấn đấu giảm án tồn đọng xuống dưới 200 nghìn việc;
4. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức làm công tác thi hành án dân sự đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, nhất là chú trọng những địa bàn, đơn vị còn nhiều hạn chế, yếu kém; xây dựng và triển khai thực hiện Đề án về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, người lao động các cơ quan thi hành án dân sự giai đoạn 2017 - 2020 và Đề án Rà soát, đào tạo đội ngũ công chức trẻ có năng lực, trình độ, tạo nguồn bổ nhiệm Phó Cục trưởng Cục Thi hành dân sự.
5. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là tại các cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, địa phương; tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra; khắc phục những vi phạm thiếu sót về chuyên môn, nghiệp vụ, những sai sót không đáng có; chủ động xử lý kịp thời, đúng pháp luật các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân, hạn chế xảy ra các trường hợp khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp.
6. Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả các đề án đã được phê duyệt về xây dựng trụ sở, kho vật chứng và đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan thi hành án dân sự, nhất là việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng trụ sở, kho vật chứng. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc quản lý và sử dụng kinh phí để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và kiên quyết xử lý các sai phạm.
7. Triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Kế hoạch thực hiện ý kiến của Chủ tịch nước, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương tại Buổi làm việc với Bộ Tư pháp về công tác thi hành án dân sự, trong đó quan tâm thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản cho ngân sách Nhà nước, đặc biệt là trong các vụ án tham nhũng.
8. Tăng cường công tác phối hợp trong thi hành án dân sự, tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả công tác phối hợp liên ngành từ Trung ương đến địa phương; tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác thi hành án dân sự, nhất là 03 Quy chế mới được ban hành (với Ngân hàng Nhà nước, với Bảo hiểm xã hội Việt Nam và với Tổng cục Thi hành án hình sự) nhằm nâng cao kết quả thi hành án dân sự.
9. Chú trọng, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp, báo cáo, thống kê, công tác thi đua, khen thưởng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thi hành án dân sự; tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khác theo Chương trình, Kế hoạch công tác năm 2016 của Bộ, Ngành và chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp.
Ý kiến ()