Tết Sửu năm Trâu lại nhớ đến các hiền sĩ, bởi đó là những người có nhiều “gánh vác”. Theo Từ điển Tiếng Việt, hiền sĩ chỉ người trí thức có đức hạnh. Thưởng, có nghĩa thưởng thức, xem ngắm, thụ hưởng. Xưa trong dịp xuân, các bậc hiền sĩ thường có những cuộc ngâm vịnh, thưởng hoa, du ngoạn.
Tiên đoán về một mùa xuân lâu dài của dân tộc, Thiền sư Vạn Hạnh viết thơ mà thành sấm thi, lay chuyển cả thiên hạ. Lý Đạo Tái - Huyền Quang (Gia Bình), đỗ Trạng nguyên, uyên bác. Vua khen “Phàm các sách đã qua tay Huyền Quang biên khảo thì không thể thêm một chữ”. Xuất gia, thành vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, Huyền Quang làm nhiều thơ. Thiền sư có bài thơ Hoa mai diễn tả ý: xuân ấy ông đã lặn lội vào rừng sâu Yên Tử lạnh buốt, bẻ lấy một nhành mai đem về cắm vào bình trước mặt, không phải để lừa con mắt (vì các bậc tu hành vốn trọng chân, không ưa hư ảo), mà nhờ những đóa mai thanh khiết - sắc thái mùa xuân giải đi phiền muộn… Sái Thuận cũng có thơ về Hoa Mai: Bụi hồng chẳng nhuốm màu trong suốt/ Ngọc trắng luôn mang chất sạch làu. Cao Bá Quát có cách trọng mai đặc biệt, ông viết: Sống trên đời, ta chỉ cúi đầu trước hoa mai (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa)…
Sái Thuận, biệt hiệu Lã Đường người Song Liễu, Thuận Thành. Tao đàn Nhị thập bát tú (28 ngôi sao văn chương) thời Lê có mặt nhiều đại thần: 3 Trạng Nguyên, 3 Bảng nhãn, 2 Thám hoa, 6 Hoàng giáp…, phần lớn là các Thượng thư, Thị lang. Vì tính ngạch trực, Trạng nguyên Lương Thế Vinh có tác phẩm phụng họa thơ vua, mà không có tên trong số 28 ngôi sao văn chương. Sái Thuận chỉ có chức quan nhỏ, ông làm Hàn lâm viện hiệu lý, công việc xem xét, tu chỉnh bản thảo. Trong Viện, có nhiều vị chức tước cao hơn ông, đó là đại học sĩ, học sĩ, thị thư. Lại có thời Sái Thuận phải dời kinh, đi làm Tham chính ở một tỉnh lẻ. Tuy vậy, những ngôi sao Văn chương trong Tao đàn phần đông không “chuyên”, nhiều người chỉ có mấy bài “phụng họa”, không có được “thi tập”. Biết tài thơ của Sái Thuận và Lương Thế Vinh, vua Lê Thánh Tông đã trao cho hai ông công việc sái phu (có sách ghi: sau Sái Thuận được bổ sung làm phó nguyên súy) làm công việc biên tập, sửa chữa “quét dọn vườn thơ” cho 28 ngôi sao sáng thi ca nước ta thời đó. Sái Thuận đã viết hàng ngàn bài thơ, đề tài đa dạng, ông để lại tập thơ chữ Hán: Lã Đường di cảo thi tập. Theo Phan Huy Chú, Thơ Sái Thuận có phong cách Vãn Đường, các bài đều tiêm tế xinh đẹp.
Nhiều năm làm quan trong triều, những ngày xa quê, ông thường nhớ quê, nhớ người mẹ: Nghìn dặm quê hương đôi mắt mỏi/Trăm năm mẫu tử một lòng thương. Ông luôn có ý răn những kẻ kiêu ngạo: Thân này đời này trời đất này/Đừng cho người là thấp hèn chỉ riêng mình tôn quý (Thử thân thử thế thử kiền khôn/Mạc vị nhân ti ngã độc tôn - Giới kiêu). Muốn có được mùa xuân chung, cũng phải có những hiền nhân quân tử lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Điều ấy, Sái Thuận luôn canh cánh trong lòng, đến vãn cảnh một ngôi chùa, ông cũng băn khoăn: Xưa nay những khách lên thăm cảnh/Lo trước vui sau hỏi có ai?
Về đề tài mùa xuân, Sái Thuận có hàng chục bài thơ: Sơ xuân, Chiều xuân, Đêm xuân, Sắc cỏ, Hoa mai… Ngắm mai, Sái Thuận vẫn dạt dào cảm xúc với ý: Hoa mai nở trước, đứng đầu trăm hoa, phẩm chất thanh khiết như ngọc trắng, như băng tuyết. Về Thuận An, ông còn có những câu thơ khắc họa cảnh trù phú thời đó, nhiều kho đụn thóc nhô cao lên như răng lược và đây cũng là vùng đất có nhiều cô gái duyên dáng: Cạnh lối nhà giàu kho - lược tủa/ Bờ khe gái đẹp tóc mây buông. Ông lại có bài thơ tứ tuyệt Ngắm cảnh xuân ở Thuận An, nét thơ điêu luyện, nhuần nhị:
Khói giậu xanh xanh tỏa gấm là
Quýt cam mầm mía cạnh bên nhà
Thái bình cảnh tượng vui con mắt
Một thứ nồm nam vạn thứ hoa.
Mùa xuân năm Đoan Khánh thứ tư 1508, Nguyễn Giản Thanh (người làng Me, Hương Mạc, Từ Sơn) hẳn nhờ nguyên khí, thần khí Kinh Bắc nhập tâm mới làm được bài Phụng thành xuân sắc phú - Cảnh sắc xuân ở thành Phụng (tức Thăng Long), lời châu ngọc. Xưa, Lý Công Uẩn (Đình Bảng, Từ Sơn) lên ngôi vua, với tầm nhìn xa rộng đã tự tay viết Chiếu dời đô, định đô về nơi thắng địa, “rồng cuộn hổ ngồi”, “chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước”. Bài phú Phụng thành xuân sắc không chỉ ca ngợi Thăng Long: “Nghìn dặm giang sơn đặt hiểm, tượng đã có danh/ Bốn mùa cảnh vật đều xuân, hoa càng thêm sắc”, “Điện ngọc thâm nghiêm”, “Cửa vàng nghiêng ngửa”, “Mây ngọc dờn dờn”, “Má rồng rờ rỡ” mà còn bộc lộ cả ý tưởng, quốc sách “Cậy hiểm không bằng cậy đức”, “Sao bằng lấy nghĩa lấy nhân, bền làm phong vực”. Đó chính là thời Lê Uy Mục, vua hoang dâm, nghiện rượu… Bài phú được các quan khảo khen, nhờ đó mà Nguyễn Giản Thanh đỗ Trạng.
Thời Lê - Trịnh, Bắc Ninh có Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều người Liễu Ngạn, Thuận Thành, đáng tiếc Ôn Như thi tập hàng ngàn bài thơ bị mất, nên không thấy những bài thơ ông viết về mai đào, nhưng còn đó Cung oán ngâm khúc. Chỉ riêng khúc ngâm ấy thôi, đời sau cũng đã thấy ông là một tài năng lỗi lạc.
Trước đây, đọc các câu thơ về tâm trạng cung nữ bộc lộ những triết lý khái quát, ví dụ: Mùi phú quý dử làng xa mã/ Bả vinh hoa lừa gã công khanh, có người cho là gượng ép. Vừa đây, nhà nghiên cứu văn học Đỗ Lai Thúy có công trình Nguyễn Gia Thiều, người đối thoại với bóng (T/c Thơ 8.2008), đã có cái nhìn rất mới: “Cô gái kia không chỉ là sự thác lời của Nguyễn Gia Thiều, nên ông không cần vì người cung nữ, một phân thân của ông mà hy sinh chính bản thân mình. Vả lại làm như vậy không chứng tỏ Nguyễn Gia Thiều kém tài, trái lại về mặt tâm lý ông còn hơn cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm. Ông dám vượt qua “phép biện chứng tâm hồn” của thứ tâm lý học mặt phẳng để đến với những phi lý của tâm lý học các bề sâu”. Làm quan đến tước Hầu là uy danh lừng lẫy lắm, “Hầu: một ông vua nhỏ” dưới mệnh của thiên tử. Cùng với thơ trong Cung oán ngâm khúc, những triết lý cao diệu, Nguyễn Gia Thiều còn có bài thơ Bảo Cam hái hoa (Cam - tên một tiểu đồng), viết kiểu dung dị: Cam tốc (khẩn trương) ra thăm gốc hải đường/ Hái hoa về để kết làm tràng/ Những cành mới nánh đừng vin nặng/ Mấy đóa còn xanh chớ bứt quàng/ Với lại tây hiên tìm liễn xạ/ Rồi sang đông viện lấy bình hương/ Mà về cho sớm đừng thơ thẩn/ Kẻo lại rằng chưa dặn kỹ càng. Giọng thơ ân cần, đôn hậu, ấm áp như tiếng nói thường nhật.
Hoàng Văn Hòe (Phù Lưu, Từ Sơn) hiệu Cổ Lâm, biệt hiệu Hạc Nhân đỗ Tiến sĩ năm 1880, triều Nguyễn nay còn lại tập thơ Hạc Nhân tùng ngôn trên ba trăm bài thơ chữ Hán, cũng là một nhà thơ lớn. Thời ấy, thực dân Pháp đang lấn tới, Hoàng Văn Hòe yêu nước, chống giặc với một tinh thần khảng khái, tràn đầy nhiệt huyết. Ông viết nhiều bài thơ về quê hương, mùa xuân: hoa mai, vườn quất, ngày xuân tế giao… Cổ Lâm luôn thương quý những con người nghèo khổ. Bài thơ Về hai người khách của ông có thuật lại: Buổi tối ấy, bỗng có hai người khách rách rưới xin ngủ nhờ, hỏi mới biết, quê họ ngay tỉnh bên mấy năm nay lụt lội, phải xiêu dạt… Lúc đó, vị tri phủ này đã trả ấn từ quan để đi chống giặc, trong nhà chẳng có gì dành dụm, nhưng Cổ Lâm vẫn đãi họ một bữa. Tấm lòng của ông bộc lộ rõ nhất trong hai câu thơ: An đắc thủ huy trí tuệ kiếm/ Vị tứ hải vô cố chi nhân đoạn não phiền - Ước gì tay múa được con gươm trí tuệ/ Dứt hết phiền não cho muôn người bốn bể. Tâm hồn của Hoàng Văn Hòe có sự đồng điệu, thấm nhuần với những tư tưởng lớn: Ước áo rộng vạn dặm/ Bốn phương che khắp hết (An đắc vạn lý cừu/ Cái khỏa chu tứ ngân - Bạch Cư Dị, TQ), Nguyện lấy nước thang lan chia bốn biển/ Từ nay rửa sạch hết nhớp nhơ xưa cho dân (Nguyện bả thang lan phân tứ hải/ Tòng kim táo tuyết cựu ô dân - Nguyễn Trãi)…
Ngày xuân, cũng có khi nghiêng bầu rượu vui cùng bạn hữu, song Hoàng Văn Hòe luôn nhớ đến trách nhiệm, tự nhủ mình: Luân thường cần luôn giữ/ Tâm, Đức nhớ trước sau (Lạc sự phù luân tự/ Tâm tâm tự khổng hoài). Lại có những cuộc ông du ngoạn. Bài thơ Lên núi Phật Tích của ông gợi lại được sự tích: Xưa có chàng Vương Chất, lên núi Phật Tích kiếm củi, đi lên cao thấy hai ông già khác thường đang chơi cờ. Chàng Vương cắm rìu ngồi xem. Hết ván cờ, chàng Vương ngoảnh lại thấy cán rìu đã mục. Thì ra, chàng đã lạc vào cõi tiên, một ngày trên đó bằng hàng trăm năm dưới trần.
Do quan sát tinh tế mà ông có những câu thơ đạt diệu cú: Nhìn thấy bóng lâu đài nơi chùa Phật Tích in hình ngược dưới đáy nước:
Trèo non vẫn thú, vượt rừng cây
Đạm bạc khói sương thỏa chí này
Tùng trúc bốn bề nghiêng bóng tháp
Nước gương một cõi ngược lâu đài
Gần xa mỏi gót đường mai tối
Thua được việc đời, nhàn trước nay
Dựa búa chàng Vương đâu xứ đến
Cờ chơi đâu đó giữa trùng mây…
Vui xuân, thưởng xuân: cùng gia đình, con cháu, cùng bè bạn uống rượu, ngắm hoa, du ngoạn, ngâm vịnh, các hiền sĩ xưa mỗi người mỗi vẻ nhưng giống nhau bởi phong độ Bắc Ninh - Kinh Bắc, “mai cốt cách”, hào hoa phong nhã…
Xuân Kỷ Sửu – 2009
Duy Phi
Ý kiến ()