Chiến tranh đã lùi xa, nhiều người lính giã từ nẻo đường chiến trận rẽ sang những chặng đường khác nhưng với nhiều nhà văn quân đội dường như chiến tranh vẫn chưa kết thúc bởi súng vẫn nổ, những đau thương và máu lửa vẫn tiếp diễn trên trang viết của các nhà văn, nhà thơ. Và ngọn lửa chiến tranh vẫn còn âm ỉ cháy trong tâm thức của một nhà văn, nhà thơ - Thượng tá Trần Thế Long. Ông đã dành cả sự nghiệp sáng tác của mình để viết về những người lính, những đồng đội cùng kề vai sát cánh chiến đấu bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc.
Ở bài thơ Người lính già Trần Thế Long đã khắc họa về một người bạn cựu chiến binh thân thiết thông qua những dòng thơ: “Khi các anh ôm bom ba càng lao vào xe tăng giặc/ Người trước ngã, người sau xông lên/ Ngực trai trẻ thấm màu cờ Tổ quốc/ Lá cờ cũng bị đạn xuyên/ Cờ là hồn thiêng đất nước/ Long lanh khóe mắt những người lính già/ Đau đáu trong tim lời nhắn gửi/ Đồng đội không về trong trận đánh hôm qua/ Có những chuyện hôm nay như cổ tích/ Những người lính già ôm ngực ho khan/ Trời trở gió - vết thương còn rớm máu”.
Bài thơ có một độ lùi khá xa so với lịch sử từ những năm tiền khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Vì thế tâm hồn người lính già có sự điềm tĩnh trước mất mát, những trăn trở bi tráng của người lính trước điểm sáng cháy rực và hơi thở nóng hổi của chiến trường năm xưa. Thơ Trần Thế Long cũng có sự khắc họa sâu sắc trước thế tục thói đời, lời thơ như tiếng nói từ gan ruột về những điều thấm thía chẳng thể thốt nên lời thông qua những câu thơ đằm sâu trong nỗi đau thổn thức về “người lính già” và nhân tình thế thái.
Những hình ảnh thường trực xuất hiện trong thơ ông ngoài những tình cảm chan chứa về làng quê, về tình yêu, về thiên nhiên thì còn luôn luôn thường trực hình ảnh người lính và những năm tháng chiến đấu gian khổ: “Thuở đánh giặc lên ngàn/Đêm mơ về thành phố/Để bây giờ lại nhớ/Núi hai triền quân đi/Mỗi bước anh trở về/ Sương trắng rừng, trắng núi” (Nha Trang chiều đang xanh).
Có thể nói rằng Trần Thế Long là một nhà văn, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, là một người lính bộ binh Sư 312, trực tiếp cầm súng xung trận nên thơ ông là thơ của người ra trận. Chẳng hạn, trong bài Đêm thức với Cồn Thoi ông viết: “Ta hồn nhiên dân giã với Cồn Thoi/Như đồng đội năm nào đi chắn sóng/Cửa sông Càn phập phù cơn lốc cuốn/Dấu cà kheo gieo sú vẹt thành rừng”. Đó là những kỷ niệm nơi chiến trường, đặc tả về người lính thực hiện nhiệm vụ, những câu chữ ấy như ghìm lại những khó khăn gian khổ một thời: “Nhớ đêm pháo ghếch chân đê/Tỉnh ra mới biết quân về Đại Xuân/Lưới giăng súng ngắn tầm gần/Cánh xòe, cánh cụp mấy lần dò la/... Tôi nằm phục kích bên sông/Lại thương cánh lúa trong đồng trỗi hương” (Nhớ Đại Xuân).
Nhà thơ viết Trở lại Truông Bồn như nén tâm hương thay lời thơ bi tráng, tưởng nhớ về tiểu đội nữ thanh niên xung phong anh hùng trên trọng điểm Truông Bồn đã hi sinh trong chiến dịch: “Chiều nay trở lại Truông Bồn tìm em/ Tượng đài trắng phía trăng lên/ Mua già giấu nụ tìm đêm đợi ngày/Ời ời anh gọi gió mây/Vùng đồi lúp xúp, cỏ cây nhạt nhòa/ Cung đường ngày ấy xe qua/ Đạn bom trọng điểm, cánh hoa mua rừng/... Anh qua góc biển chân trời/Trở về bới sỏi vùng đồi gọi em/Đâu rồi vai áo lá sen/Đâu rồi vành mũ vải mềm nắng mưa/Bồi hồi ví dặm, đò đưa/Nhập hồn trinh nữ hoa mua tím trời”.
Dù viết về những tháng ngày chiến đấu gian khổ, viết về một miền quê, về tình yêu hay một sự việc cụ thể thì sự sắc sảo, trong trẻo, lảnh lót chứa đựng trong tư duy nghệ thuật, trong các yếu tố thi pháp và ở tấm lòng chân thực tinh khôi của tác giả Trần Thế Long vẫn luôn để lại điểm nhấn ấn tượng trong lòng độc giả. Ở Bản Khói dù là những câu thơ tả thực với những ký ức chiến tranh đầy mất mát, bi thương nhưng lại chất chứa ngôn từ nghệ thuật và thể hiện lối viết đầy phóng khoáng. “Tình nguyện quân đi qua Bản khói/Màu xanh mũ vải lẫn cây rừng/Dân công hỏa tuyến đi như chạy/Ruột tượng ruôn đầy gạo thắt lưng/Bản Khói cheo leo bên dốc núi/Sương như mây phủ mái nhà sàn/ Thương vườn mắc cọp không ai hái/Tiếc bụi mai già chửa kịp măng/ Bà mế Lào Thowng lưng địu sắn/Típ xôi khất thực nhớ sư già/Ngả nghiêng chum đá đêm giặc lấn/Tràn nước Nậm Ngừm dội thác xa/Xiêng Khoảng, Đồng Chum mùa chiến dịch/Xe tăng, súng đạn động núi rừng/Quân ta vây lấn đồn Sa Nọi/Áo bạc chiến hào máu đỏ lưng.
Nhà thơ dù trong đau thương, mất mát vẫn luôn trong tâm hướng “xung kích”, “thường trực” của văn học nghệ thuật đó là sự “lãng mạn” là những diệu pháp nghệ thuật, là sự kết tinh và lắng đọng, là cốt truyện và cách kể chuyện trong thơ ca. Sức quan sát, những trải nghiệm và chiêm nghiệm dày công suy ngẫm rút ngắn khoảng cách giữa thi nhân và người đọc, mọi thứ như một bữa tiệc được bày sẵn để người đọc thưởng thức, đắm chìm vào câu chuyện kể ấy tạo nên sức lay động tinh thần và tao nên cơn xung chấn mạnh mẽ xáo trộn tâm thức người đọc và thỏa mãn họ bằng bữa tiệc đầy cảm xúc ấy mà đồng điệu với nỗi đau của thời đại, của những gì đã qua: “Sốt rét chân phù da mặt ủng/ Khói hun hàng đá mồ hôi rừng mặn/Có con hoẵng giác tìm tro mặn/Có lá thư nhà bạn đọc chung/Chiến dịch mùa khô vừa kết thúc/Quân về qua bản vắng bao người/Cổ tay buộc chỉ đêm trăng ấy Bập bùng Bản Khói khắp lăm tơi”.
Dù vẫn là câu chuyện thời chiến nhưng từng mảng màu sắc rực rỡ đẹp đẽ trong bài thơ như đối lập với bao niềm đau thương, mất mát, khốc liệt của chiến tranh, của quân và dân vượt qua giới hạn của không gian biên giới chính là nét nhấn nhá đặc sắc trong “Bản Khói”. Phải chăng, chỉ có những người lính đã từng đi qua chiến tranh lửa đạn mới thấu hiểu được những gian khổ, những mất mát hy sinh hay những bản hùng ca của chủ nghĩa anh hùng cách mạng sáng ngời lý tưởng, thắm thiết tình đồng chí và mang tầm vóc của thế kỷ cách mạng.
Ông có nhiều bài thơ viết về người lính, đã có nhiều bút pháp khác nhau nhưng đó đều là những mảnh đời chân thực, người lính ở biên giới, trong rừng hay ngoài đảo xa đều cùng một chí hướng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh,... Với ông, thơ văn là cái nhìn hướng thiện, bỏ mặc những xô bồ của đời sống hiện thực, những cái chưa tốt rồi sẽ tốt đẹp. Khả dĩ dù có cố dùng sức lực vạm vỡ của thơ ca để thức tỉnh sự chân thực của cả một xã hội rộng lớn bao la thì cũng có lúc phải buông bút nhưng rồi ý chí của người lính cầm bút được rèn giũa qua gian khổ chiến trường mang bản lĩnh và sức mạnh dân tộc, được nhen lên từ ngọn lửa quê hương và ướp hương từ mật ngọt của tình đồng chí, đồng đội, những áng văn hướng về một thế giới cao rộng và nhân văn, hướng về một cái đẹp hào hùng của thời đại và cả nỗi đau thế sự - nỗi đau kiếp nhân sinh.
Cũng giống như nhiều đồng đội cùng trưởng thành trong quân ngũ như nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, nhà văn Hà Đình Cẩn,… với Trần Thế Long - nửa đời mặc áo lính, nửa đời trải qua khắp mọi chiến trường từ Bắc vào Nam, sang nước bạn và nửa đời ấy là linh hồn làm nên phần đặc sắc nhất trong thơ, trong những tác phẩm của ông. Một hồn thơ mang đậm khí cốt của hồn thiêng sông núi và dân tộc. Với nhà văn - nhà thơ Trần Thế Long thì con đường gắn bó với cách mạng, với sáng tạo lao động nghệ thuật vẫn còn dài mãi dài mãi cho đến khi chẳng còn sức lực để cầm bút nữa.
Tôi không thể quên được hình ảnh của ông khi bệnh nặng phải nằm viện, bạn bè đến thăm: dù đau đớn ông vẫn cười nói như hạ mệnh lệnh xung phong: “Phải sống, phải sống để viết tiếp”. Đấy chính là tiếng nói từ trái tim của người - một nhà văn, nhà thơ chân chính.
Thu Nga
(Hội VH-NT tỉnh)
Ý kiến ()