Đồng chí Nguyễn Nhân Chiến, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh trò chuyện với các nghệ nhân Quan họ làng Viêm Xá đầu xuân Quý Tỵ năm 2013.
Dẫu bây giờ Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã phổ biến khắp trong Nam ngoài Bắc và lan rộng sang nhiều quốc gia trên thế giới nhưng chỉ khi về Bắc Ninh người ta mới cảm nhận được hết cái sâu sắc, phong phú của một loại hình dân ca mà thiên hạ đã phải gọi là “nghề chơi”. Muốn biết “nghề” thì phải học, nhưng muốn “chơi” được với nghề thì dứt khoát phải “tinh nghệ”, phải nắm được và sử dụng nhuần nhuyễn những “tuyệt kỹ” của nghề.
Các nghệ nhân vùng Kinh Bắc vẫn luôn nhắc thế hệ sau khi truyền dạy: Quan họ không đơn giản chỉ có hoạt động ca hát mà bao chứa trong đó nhiều phong tục, tập quán, lối ứng xử và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đặc sắc nên đã trở thành một “đặc sản văn hóa” luôn thu hút và gây ấn tượng mạnh. Thế mới hiểu tại sao, trong khi những loại hình nhạc cổ khác đang “khát” khán giả thì Dân ca Quan họ Bắc Ninh-Di sản văn hóa phi vật thể Đại diện của Nhân loại vẫn được công chúng đón nhận, cổ vũ. Đặc biệt, khi du lịch văn hóa đang là sự lựa chọn của nhiều đối tượng du khách trong và ngoài nước thì “nghề chơi Quan họ” ở Bắc Ninh ngày càng trở nên hấp dẫn.
Gần đây, khi đã nghe nhiều, nghe mãi Dân ca Quan họ bằng loa máy và có nhạc đệm, nhiều người, kể cả người Bắc Ninh gốc bỗng nhớ và muốn được sống trong những canh hát “tàn đêm rạng ngày” trong không gian của lễ hội, đình đám, của những yêu thương, nhung nhớ.
Mang những tâm sự này của du khách gần xa đến trò chuyện với nhà nghiên cứu Quan họ Lê Danh Khiêm, ông phân tích: Trong bốn hình thức hát Quan họ (hát chúc hát mừng, hát thờ, hát hội và hát canh) thì hát canh thể hiện rõ nhất trình độ của người hát. Nó cũng tụ hội nhiều vẻ đẹp tinh túy của nghề chơi Quan họ. Muốn biết nghề chơi Quan họ đặc sắc thế nào thì phải nghe hát canh. Nhưng nếu chiếu theo lề lối cổ mà xét thì không phải làng Quan họ gốc nào cũng đủ điều kiện phục dựng được những canh hát “đặc cổ” bởi nó rất cầu kỳ, phức tạp. Song vẫn có những địa chỉ để du khách có thể tìm đến và được thỏa nguyện khám phá như ở những làng Quan họ gốc Viêm Xá, Hoài Thị…
Nén chặt xúc cảm từ gợi mở ấy, chúng tôi về Hoài Thị (xã Liên Bão, Tiên Du) để được thưởng thức và khám phá kỹ thuật hát canh truyền thống-một lối hát luôn đòi hỏi những quy tắc khắt khe, nghiêm chuẩn với kỹ thuật thanh nhạc đỉnh cao. Hoài Thị hay còn gọi Bựu Sim là một trong số rất ít làng Quan họ gốc hiện có tỷ lệ liền anh liền chị đồng đều, âm dương tương xứng. Đây là yếu tố quan trọng bảo đảm cho những canh hát đối đáp chuẩn quy tắc “nam tòng nữ”.

Các thế hệ liền anh, liền chị Quan họ làng Hoài Thị (xã Liên Bão, Tiên Du) trong một canh hát lề lối.
Canh hát Quan họ lề lối được mở ra ngay tại đình làng Hoài Thị. Dưới mái đình cổ phảng phất nếp bụi thời gian, nền trải chiếu hoa, liền anh ngồi bên này, liền chị ngồi bên kia đối diện nhau, ở giữa là những chén trà và cơi trầu têm cánh phượng. Không nhạc đệm, không loa máy, canh hát mở đầu bằng câu ra của bên nữ “Mong người như cá mong mưa” và bên nam đối “Nhẽ ra em cũng ở nhà”. Rồi bên nam lại ra câu “Đường bạn” thì bên nữ đối “Kim Lan”. Nữ ra “Nhất ngon là mía Lam Điền” nam lại đối “Cổ tay đã trắng lại tròn”. Nam ra “Cây gạo cao cao” thì nữ đối “Cây gạo chon von”…
Hàng trăm câu Quan họ mộc rung bật giữa không gian tĩnh lặng thuần khiết, cổ kính như mê hoặc lòng người. Giọng người hát dẫn và người hát luồn đồng điệu, đan quấn vào nhau căng mẩy, nuột nà điêu luyện. Nhưng thật không dễ để tổ chức một canh hát lề lối mẫu mực từ không gian diễn xướng cho đến trình tự giọng điệu bài bản như thế. Vậy mới nói, nghe hát Quan họ thì ở đâu cũng có thể chứ để tham dự những canh hát cổ và “chơi Quan họ” thì nhất định phải về Bắc Ninh.
Tiếp nối từ canh Quan họ lề lối ở làng Hoài Thị, chúng tôi về Viêm Xá (còn gọi làng Diềm, xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh) là đất tổ của nghề chơi, có đền thờ Vua Bà-người được coi là đầu tiên sáng tạo ra những làn điệu Quan họ ngọt ngào, đằm thắm, trữ tình. Xung quanh nhân vật Vua Bà được bao phủ bởi nhiều truyền thuyết thú vị song đặc sắc nhất, theo chúng tôi chính bởi giai thoại về người đàn bà vùng Kinh Bắc có ba vú và sữa thơm. Nhờ dòng sữa ngọt ngào, thơm đặc sánh vàng ấy mà Bà đã được vua mời vào cung nuôi hoàng tử và phong tặng là “Nhũ Hương”-nghĩa là người có sữa thơm. Bà Nhũ Hương sau đó về làng Diềm dạy dân hát, tiếng hát, lời ca ấy gọi là Quan họ. Có lẽ chính từ tình yêu con của người Mẹ, yêu con người, yêu cuộc sống, quê hương mà chất trữ tình trong Dân ca Quan họ nhuộm thấm từ không gian đến cảnh vật, sâu xuống tận mạch nước ngầm giếng Ngọc, thấm sang cả tính cách và giọng nói của cư dân trong làng.
Hiện nay, làng Diềm vẫn còn giữ được cụm di tích đình, đền, chùa nổi tiếng linh thiêng, cổ kính cùng những không gian sinh hoạt diễn xướng Quan họ truyền thống đặc trưng khác như: hồ bán nguyệt, bãi hội, nhà chứa cổ… Đây là những thiết chế văn hóa quan trọng để phục dựng, thực hành nghề chơi Quan họ theo lề lối cổ mà ít làng Quan họ gốc còn bảo lưu được đầy đủ như thế.
Làng Diềm với làng Bựu kết bạn Quan họ từ vài trăm năm trước đến nay tình cảm ngày càng gắn bó khăng khít, bền chặt. Người Quan họ bảo, nếu chữ nghĩa, chữ tình là một vẻ đẹp điển hình trong văn hóa Quan họ thì nghĩa tình Diềm-Bựu thật là một vẻ đẹp mẫu mực của tục kết bạn Quan họ. Tuy ngày nay các tổ chức bọn Quan họ không còn tồn tại như xưa nhưng nghề chơi Quan họ ở làng Diềm, làng Bựu luôn được các thế hệ liền anh, liền chị truyền giữ và tiếp nối. Những nghệ nhân Quan họ như cụ Nhi, cụ Lịch, cụ Khu, cụ Bàn… dù tuổi cao, mắt mờ, tai nặng nhưng vẫn say nghề lắm. Chỉ khoảng dăm bữa, nửa tháng là các cụ lại mượn cớ sang nhà nhau thăm hỏi để được ca Quan họ cho bớt nhớ nghề.
Hơn chúng tôi cả nửa thế kỷ tuổi đời vậy mà khi trò chuyện, các cụ vẫn giữ nguyên nét lịch lãm, sang trọng xưng chúng em và gọi khách là các bác. Các cụ kể: Nghề chơi của chúng em công phu lắm nên muốn chơi được Quan họ đòi hỏi nhiều tâm sức và thật kỳ công. Những người đạt đến trình độ mẫu mực mà chúng em gọi là “ông trùm”, “bà trùm” khó lắm chứ chẳng đơn giản. Đó vừa là người hát hay, nằm lòng nhiều câu Quan họ vừa phải giỏi chữ nghĩa và biết sáng tác bài bản, vế ra, vế đối đẹp cả giai điệu lẫn lời ca, sâu sắc về ý nghĩa. Muốn chơi được Quan họ phải là người có khả năng tham gia vào những canh hát chay, hát mộc vắt từ đêm này sang đêm khác. Mà những canh hát như thế bây giờ hiếm lắm…
Điền dã, tìm hiểu qua nhiều làng Quan họ gốc, chúng tôi hiểu những canh hát vắt từ đêm này sang đêm khác không chỉ là nỗi hoài niệm khôn nguôi của các thế hệ nghệ nhân cao tuổi mà còn là niềm mong mỏi đau đáu của nhiều công chúng yêu say văn hóa Quan họ. Phục dựng và làm sống lại những đêm chơi lề lối “ca cho tàn canh, mãn võ, cho tàn đêm rạng ngày” của người Quan họ vừa góp phần bảo tồn một nghề chơi độc đáo, mẫu mực vừa là cơ hội để du khách được trải nghiệm những giá trị tinh túy “vàng ròng” của Quan họ khi đến Bắc Ninh.
Nhưng muốn làm sống lại những canh Quan họ cổ chuẩn mực không đơn giản. Ngoài yếu tố cần thiết là các bọn Quan họ liền anh, liền chị “tinh nghề”, dày vốn liếng Quan họ thì còn phải có đủ những điều kiện về không gian diễn xướng cùng với những cơ sở vật chất khác. Trong đó, quan trọng nhất là nhà chứa-một thiết chế đặc trưng của nghề chơi Quan họ. Nhưng cả vùng Quan họ hiện chỉ còn nhà chứa cổ duy nhất của nghệ nhân Ngô Thị Khu ở làng Diềm. Hơn nữa, nếu cứ để mặc các làng Quan họ tự mầy mò phục dựng thì may mắn lắm cũng chỉ được đôi ba canh hát rồi sớm muộn lại rơi rụng, quên lãng. Bảo tồn nghề chơi Quan họ và kịp thời duy trì những canh hát cổ lề lối nghiêm chuẩn đòi hỏi phải có sự quan tâm giúp sức nhiều hơn, khẩn trương hơn của các cấp, các ngành và cả cộng đồng…
Dân ca Quan họ vẫn hoà trong “nhịp thở của thời đại”. Mỗi làng quê, mỗi gốc đa, mái đình, bến nước, dòng sông... ở Bắc Ninh hôm nay vẫn ẩn chứa tình đất, tình người Quan họ. Sức sống bền bỉ, trường tồn, những sắc cốt lấp lánh từ canh Quan họ mộc lề lối của làng Hoài Thị, làng Diềm cũng như nhiều làng Quan họ khác trong vùng vẫn là “vầng sáng” thu hút và tạo ấn tượng bền sâu với bè bạn muôn phương đang và sẽ muốn tìm về Bắc Ninh chơi Quan họ.
Ý kiến ()