Mấy chục năm về trước một hôm từ trong thành ông Văn Cương nhắn cho tôi, anh em nói cậu đang loay hoay xây nhà, vậy nếu có khó khăn gì thì cho biết, trong này có thể hỗ trợ đôi chút chăng. Được lời như cởi tấm lòng, quả là tôi đang chạy đôn chạy đáo mà vẫn chưa kiếm nổi ít sắt để đổ cái bếp mười lăm mét vuông.
Ai mà không biết Trường sĩ quan chính trị là một đơn vị lớn đang đóng trong khu Thành cổ. Người già kể xưa bao quanh thành là một vòng hồ sâu nước trong vắt, nó vừa là quang cảnh đẹp lại vừa là chiến hào phên dậu. Tường thành xây bằng đá ong, năm mặt thành đều đá ong. Sớm sớm đôi ngựa hồng sóng nước kiệu đi tuần, dân chúng quanh thành ngẩng cả lên mà nhìn.
Bởi mưa nắng dãi dầu nên thành quách sụt lở cũng có, nhưng ngồi ngẫm lại mới thấy con người ta tàn phá mới gớm. Chẳng hiểu tính toán thế nào mà dạo ấy cả một đám đông cứ cắm đầu hò nhau lao lên đập nát cả cái thành chỉ trong chớp mắt. Gần chỗ tôi sắp làm nhà vẫn đang còn sót lại một khúc thành, nó đứng trơ vơ soi bóng xuống ao bèo buồn bã như một chứng nhân.
Cuối ngõ có ông cụ vốn chữ Hán vững, biết tôi sắp dọn đến đã mang tặng cho đôi câu đối: “Vị quải nhất bao đào lậu hạng, thí tương tam cú phú vu thành”. Chưa khoác được bị ra khỏi ngõ nhỏ này thì làm vài ba câu vịnh cái thành hoang kia.
Là ông cụ làm cho tôi mà cũng là làm cho chính mình. Có rất nhiều chuyện chả ra làm sao, chỉ ngồi trong ngõ nhìn ra đã đủ thấy phải phàn nàn.
Không chắc ở đâu cũng có kèn đồng. Hình như chỉ trong Thành cổ chỗ chúng tôi là đang có. Đó là niềm tự hào của thành phố. Đi lên từ thị xã đèn dầu, bà con hàng phố ngày ngày nghe tiếng kèn hiệu cất lên mà cảm kích thêm yêu quí các anh bộ đội. Nó là sự nhắc nhở chung, nghe lâu thành quen đi xa thấy nhớ.
Giờ quay lại chuyện của tôi, sớm ấy sau tiếng kèn báo giờ làm việc của một ngày bắt đầu tôi đã kịp đứng trước cổng thành. Một sĩ quan trẻ măng cánh tay mang băng trực ban dẫn tôi đến cửa hiệu bộ. Tôi nom thấy ông Văn Cương đang ngồi trò chuyện với một người nào đó trong phòng thoáng thấy tôi ông đã reo lên “Đỗ Chu đến đấy anh Bắc ạ”. Rồi ông giới thiệu cho tôi biết đây là ông Hồ Bắc, bạn chiến đấu từ đầu cách mạng, trải qua mấy chục năm lăn lộn khắp các chiến trường nay được trên sắp xếp cho về gần nhà, làm Hiệu phó phụ trách mảng quân sự của nhà trường. Học chính trị nhưng cũng cần phải giỏi quân sự. Anh Hồ Bắc là một cán bộ quân sự lão luyện. Hai mươi tuổi đã làm đại đội trưởng một đại đội tiền thân của Tiểu đoàn Thiên Đức thành lập sau đó. Họ đánh thọc sâu vào vùng địch tạm chiếm bên kia sông Đuống. Nhiều trận thắng oanh liệt giặc treo giải thưởng năm vạn đồng Đông Dương để lấy đầu anh ấy. Những ngày ấy thật khó quên, bọn tớ hy sinh nhiều lắm.
Cả hai ông lúc đó đang còn là Đại tá, về sau nghe tin họ cùng được phong Thiếu tướng, rồi mấy năm sau nữa ông Văn Cương được đề bạt Hiệu trưởng mang hàm Trung tướng. Ông Hồ Bắc vẫn ở yên Thiếu tướng cho đến ngày nghỉ hưu. Nghỉ hưu ông về sống với vợ con trên quê làng Phong Xá, Yên Phong. Về hôm trước hôm sau xắn quần cầm liềm gặt lúa. Thấy bóng chồng bước xuống ruộng bà vợ kêu toáng lên, sao ông không ở nhà chuyện trò với bà con chòm xóm mà lại ra đây làm gì. Ông dịu dàng nói: Bà một đời lặn lội thân cò, giờ về nhà rồi, tôi lại không được ra đồng cùng bà hay sao?
Tôi không quên buổi gặp ông lần ấy, lúc ông Văn Cương sang sảng “Đỗ Chu đến đấy anh Bắc ạ” ông liền đứng dậy kéo tôi ngồi xuống cạnh ông. Cử chỉ vừa thân ái lại vừa lịch lãm, khiến tôi xúc động mà quên luôn cả mục đích đến. Đầu óc tôi lan man suy tưởng. Bao nhiêu năm nay cứ ngỡ Bắc Ninh chỉ có một Hồ Bắc nhạc sĩ lừng danh người làng Phù Lưu, Từ Sơn. Đâu ngờ vẫn đang còn có một Hồ Bắc nữa. Quê hương chúng ta có hai Hồ Bắc.
Cuộc gặp gỡ các ông thật ngắn ngủi, chỉ vài phút là ông Văn Cương đã đứng dậy, tôi theo ông Hồ Bắc xuống phòng hậu cần. Ở đó tôi phải ký tên vào tờ biên lai cho đúng thủ tục sau đó gửi lại tài vụ một chút tiền gọi là đã mua tạ sắt Liên Xô, với giá thấp nhất có thể.
Ngang chiều có mấy anh lính trẻ hì hục lăn cuộn sắt vào ngõ. Mẹ tôi nhìn ra nói, rẻ hơn cả giá sắt vụn, đấy là người ta thương mày chứ mua bán gì lại thế.
Vào lúc chia tay ngoài cổng doanh trại ông Hồ Bắc còn hỏi vặn tôi, sao không xây nhà trên trước mà lại xây bếp, thế có phải là ngược đời không ? Tôi trả lời, lính nghèo làm nhà phải lo từng bước, làm bếp trước để sớm có chỗ chui ra chui vào sau đó mới có thể tính đến chuyện xây nhà trên. Nhà trên nhất định rộng gấp đôi nhà bếp, dẫu sao cũng chỉ là một tầng, nền móng vôi cát qua loa được, riêng cái bếp lại cần kiên cố, vì rồi ra còn phải chồng lên nó một căn gác nữa với đầy đủ tiện nghi. Một cái tổ chim sâu, đấy lại là ước mơ của những người cầm bút lương thiện.
Ông Hồ Bắc không nhịn được cười: “Tớ hiểu tớ hiểu và tin là cậu sẽ có một tổ chim sâu của mình”. Tôi đưa cả hai tay ra nắm lấy bàn tay ông, một bàn tay ấm. Mùa đông ấy cả nhà, mẹ già hai vợ chồng và ba đứa nhỏ từ ngoài phố dắt nhau chui vào căn bếp hẹp. Một căn bếp có dáng dấp cái lô cốt, cửa giả chưa có, góc đằng kia bập bùng củi lửa. Hôm đổ trần có đến hai chục cán bộ chiến sĩ trong trường tham gia như những người thợ xây lành nghề.
Một hôm họa sĩ Phan Kế An dẫn hai chàng lãng tử ập vào nhà tôi, đầu tóc áo quần giầy ủng đều bết bùn, ba cái mô tô ba súng bắn chim và một con bồ nông gãy cánh hai chân trói chặt. Tiếng mô tô rầm rầm lao trong ngõ, đám trẻ con lố nhố chạy theo sau. Cả ba bắt tay tôi, anh Phan Kế An nói, cứ hẹn với nhau mãi, hôm nay mới có dịp đến chú. Đêm nay chúng tớ nghỉ tạm đây mai dậy tờ mờ sáng, không săn nổi mấy con vịt giời chưa về. Vùng ngập nước bên này cứ ít chim dần, rủ nhau săn vịt giời nhưng cái mang về lại là bồ nông. Bồ nông cũng tốt chán, chú nói vợ con đốt cho một đống lửa ngoài sân giếng, kê mấy viên gạch làm bếp, chuẩn bị một nồi nước sôi thật đầy, những việc khác để chúng tớ lo. Sẽ thết cả nhà một nồi sáo.
Thấy con trai lóng ngóng đi ra đi vào bà cụ tôi hỏi thầm, các ông ấy ngủ nghê thế nào nhỉ, tôi đáp mẹ đừng lo, họ đều là những chiến binh xông pha lắm, ngủ ngoài trời là chuyện thường.
Bữa tiệc bồ nông tàn vào lúc nửa đêm, con chim quá lớn, ăn như phá mả mà vẫn còn lưng nồi để lại. Thằng cháu được bữa no vỗ bụng bồm bộp, nó là đứa thường xuyên thèm thịt.
Trải mấy tấm ni lông ra thềm, cánh đàn ông ngủ lăn lóc. Đúng lúc tôi nằm mơ mình đang bay trên cánh đồng thì anh Phan Kế An thúc tay gọi dậy. Tưởng trời sắp sáng nên tôi hỏi, liệu em có cần cùng đi với các anh không? Không, là tớ muốn gọi chú dậy để chuyện trò. Tớ nhớ lại rồi, chỗ này ngày trước là bãi thả ngựa, tớ thường ra đây xem anh gù vực con ngựa non, dạo đó tớ đang phải luyện vẽ để về thi vào Mỹ thuật Đông Dương. Nghe nói ông cụ anh có lúc đã làm Tổng đốc tỉnh này? Thì làm Tổng đốc mấy năm rồi mới về Hà Nội nhậm chức KhâmaTsai Đại thần. Thảo nào lúc đào móng gặp nhiều chai rượu Pháp quá, đủ các hãng. Chú tính, vài tuần lại một đêm tiệc tùng, rượu chất đầy bàn, uống xong vỏ chai không quẳng ra đây thì bảo để đâu.
Xem ra mỗi mảnh đất đều có quá khứ, có số phận của nó, chẳng khác nào con người ta. Những năm vừa qua tôi thường ngồi với anh Phan Kế An, lúc chia tay bao giờ anh cũng chỉ có một câu, thể nào tớ cũng phải mò sang chú một lần nữa. Tôi gật đầu lấy làm hân hạnh nhưng bụng nghĩ việc ấy thế mà khó, anh ấy già lắm rồi, miệng móm mém răng lợi chẳng còn lại điếc nữa. Tuổi già đến nhanh thật, bản thân tôi cũng thấy mình nên giật mình trước sự thật đó.
Năm ngoái giáp Tết tôi rủ vợ chồng anh bạn sang nhà chơi. Anh chị trầm trồ khen Bắc Ninh giờ đẹp lên nhiều, phố xá đông mà người ngoài đường vẫn thong thả thanh lịch, các thiếu nữ lại càng tươi sáng, giữ được cái duyên thầm của một vùng đất giàu truyền thống.
Cái ngõ khuất vắng nhất là ngõ nhà tôi cũng được khen là dễ chịu. Chợt một hồi kèn đĩnh đạc vang lên từ mé Trường sĩ quan khiến cả hai vợ chồng đều không giấu nổi sự kinh ngạc. Khuôn mặt họ cùng một lúc sáng lên, nhìn nhau ý tứ như muốn hỏi, phải chăng đây là một dấu hiệu bình yên của mỗi ngày. Vào lúc ngang trưa trong khi chiếc xe còn đang đi lòng vòng quanh thành phố thì lại thêm một dấu hiệu tốt đẹp nữa, tiếng chuông nhà thờ dóng dả vang lên, như muốn nhắn họ hãy cầm tay nhau.
Vừa đặt chân vào nhà thì từ bên kia đường anh Ngô Thế Vĩnh, một kỹ sư nông học, bạn vong niên của thiếu Tướng Hồ Bắc chạy sang báo tin, ông ấy vừa qua một trận ốm nặng giờ đang tỉnh trở lại.
Đợi cho mọi người thong thả uống xong chén trà tôi hô tất cả ra xe tìm lên Phong Xá chúc mừng ông Tướng tai qua nạn khỏi.
Tôi đề nghị anh Vĩnh ngồi ghế đầu làm người dẫn đường vì tôi biết quá rõ anh bạn tôi là người cầm lái không mấy tin cậy. Tuy anh là một nhà khoa học thật nhưng đôi mắt lại cận thị từ hồi trẻ, hơn nữa hai vợ chồng lại vừa chân ướt chân ráo từ nước Tiệp xa xôi về, đường đất còn đang ngỡ ngàng.
Chỉ mươi cây số mà tối mịt mới mò được đến nhà ông Hồ Bắc. Căn nhà khang trang ánh điện hắt sáng mảnh sân gạch rộng rãi. Đồ đạc trong nhà rất bình dân, bàn ghế tủ chè kiểu mốt thông thường. Mấy anh con trai mạnh mẽ linh lợi chạy ra chạy vào lo chuyện đón khách. Nghe anh Vĩnh nói ông còn có một cô con gái rất đảm, mấy tháng trước mang chồng con từ Vũng Tàu về nhà thăm bố mẹ anh em. Hai vợ chồng có xe riêng, thay nhau cầm lái đi một mạch suốt đêm suốt ngày, hôm trước còn đang trên đất Nam Bộ, hôm sau đã nhênh nhang dọc miền Trung, hôm thứ ba thì đến Hà Nội, về tới nhà là vừa ba ngày ba đêm. Tôi gặng, thế dọc đường chúng nó không ngủ à. Anh Vĩnh nói, đứa này cầm lái thì đứa kia tranh thủ chợp mắt, mấy đứa con ngồi sau thì ngủ bao nhiêu chẳng được. Cũng có lúc phải dừng xe chứ nhỉ ? Anh Vĩnh quả quyết, chúng nó nói với tôi là đi liền một mạch, thời nay chúng nó làm được thế đấy. Chúng nó bây giờ tài tình lắm.
Ông Hồ Bắc ngồi trên giường, tựa lưng vào vai bà Thủy vợ mình, nom thấy chúng tôi lếch thếch bước vào thì cười giơ tay ra vẫy. Nụ cười thật hiền. Nụ cười ấy là phần thưởng vô giá ông giành cho chúng tôi. Còn món quà duy nhất mà chúng tôi mang đến cũng chỉ là một chai vang đỏ của vợ chồng anh bạn từ xa xách về.
Tha hồ thăm hỏi chuyện trò, căn nhà náo động. Ông bà vui, các cháu vui và chúng tôi vui. Tôi mường tượng mai xóm làng lại hỏi, gớm, đêm qua bên ấy có những ai mà nói cười vỡ nhà.
Để vợ chồng bạn sớm được trở về Hà Nội ngay trong đêm, tôi đứng dậy bắt tay ông, bắt tay bà, bắt tay các cháu. Ông nhìn theo chúng tôi đi ra cổng. Cũng chả biết nói gì thêm nữa, cứ nhìn vào mắt nhau cũng đủ rồi.
Vào lúc sắp chia tay ông bảo cậu con út mở tủ mang ra một tập hồi ký in Rô-nê-ô ông đã kịp hoàn thành trong mấy năm vừa rồi. Thế cũng có nghĩa là tuy về hưu nhưng trên thực tế lại là chưa chịu về.
Ông đặt vào tay anh Vĩnh tập hồi ký dặn giữ lấy, ai muốn đọc thì đưa. Về đến nhà tôi tranh đọc trước. Thoạt đầu chưa dám nghĩ tập sách lại có sức khơi gợi lôi cuốn nhiều đến vậy. Ôm gọn trong đó là trên hai trăm trang ông tự kể đời mình. Một người Chiến sĩ lăn lộn suốt hai cuộc trường kỳ kháng chiến. Qua khắp mọi miền nếm trải đủ mọi thứ đau đớn, lúc vào tù khi ra trận. Tất cả được trình bày rành mạch theo từng bước đi của năm tháng. Vắn tắt và sáng sủa, chân thành và giản dị. Đấy là những ưu điểm để tập sách trở nên sinh động.
Gấp tập sách tôi ngồi nhớ lại, đã lâu lắm có lần tôi dắt anh Hoàng Ngọc Hiến lên ông Văn Cương chơi. Nhà ông ở Thị Cầu, một nếp nhà cũ giữ lại được sau bao biến động. Chúng tôi đến lúc chập tối, điện đóm phập phù nên ông lấy thêm ra bàn vài cây nến phòng khi điện tắt. Bà Vinh Hương vợ ông mang rổ hồng xiêm vườn nhà ra ngồi bên chồng vừa gọt vỏ vừa góp chuyện.
Lần ấy anh Hiến vừa từ Paris về, mang biếu ông bà tập “Bàn về tính hiệu quả” của một triết gia đương đại Pháp do anh dịch ra tiếng Việt. Thế là có đến cả tiếng đồng hồ câu chuyện thành sôi nổi quanh những vấn đề thời sự nhất của triết học. Một khi đã ngồi bàn về một cuốn sách Pháp thì không thể không dùng ít nhiều tiếng Pháp, tôi thấy cả hai ông đều thành thạo.
Bà Vinh Hương nguyên là bà giáo dạy tôi từ nhỏ, bọn trẻ chúng tôi rất kiêu hãnh vì có một cô giáo như bà, đã rất đẹp lại giỏi giang. Là người Bắc Ninh nhưng bà lại được sinh ra ở kinh thành Huế, trong một cái ngõ gọi là ngõ Vang Hương, cho nên bà mới được mang tên là Vinh Hương. Vốn là con cháu nhà quan nên được dạy dỗ chu đáo, đến tuổi đi học bà được gửi về Hà Nội, vào học ở trường con gái Pháp, vây quanh bà toàn là những cô đầm con, chỉ lác đác vài cô bé Việt. Quanh năm phải dùng đến tiếng Pháp cho nên bà giỏi tiếng Pháp cũng là lẽ thường tình. Lúc hai ông nói chuyện với nhau tôi thấy bà chỉ ngồi im lắng nghe. Tôi nghĩ bà không chịu nói chứ không phải là không biết nói.
Lựa một lúc thuận lợi tôi chen vào lái câu chuyện sang hướng khác. Tôi than vãn rằng mình được gặp ông Hồ Bắc muộn quá, thật chưa hiểu nhau bao nhiêu, vẫn mong có dịp đón ông ấy ra thăm nhà.
Ông Văn Cương quay về phía tôi nói, anh Hồ Bắc xứng đáng là một Anh hùng. Bà Vinh Hương ngẩng lên, ông ấy là một nhân cách lớn.
Lúc đó tôi nghĩ sống để được anh em đồng chí yêu quí như vậy còn gì bằng, đánh giá một con người như thế đã là quá đầy đủ.
Nhưng giờ đây, một mình trên căn gác tổ chim sâu, nghĩ lại tôi thấy đánh giá thế về một người như ông Hồ Bắc hình như vẫn chưa đủ. Hình như vẫn còn một cái gì đó cao hơn xa hơn thuộc về ông, nó chắc chắn phải là một giá trị tinh thần rất sang trọng. Nó không thể là thứ hàng hóa để mang ra mua bán đổi chác, không thể xin cho cũng không lo mất.
Khuya. Mưa ngoài cửa sổ. Tôi bàng hoàng chợt nhớ ra câu nói bất hủ của một nhà văn Pháp gửi lại. “Nếu vẻ đẹp sau cùng của một cuốn sách là sự giản dị thì vẻ đẹp sau cùng của một con người là sự từng trải”.
Vâng, chỉ đơn giản vậy thôi, ông Hồ Bắc là một người từng trải.
Hà Nội 12/2016
Ý kiến ()