Bà Trần Thị Ninh 78 tuổi, cựu giáo chức xã Cách Bi (Quế Võ) hàng chục năm nay luôn đau đáu khôn nguôi nỗi xót xa, bùi ngùi về sự hy sinh thầm lặng của cha mình - một người hoạt động cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa. Chia sẻ với chúng tôi, bà Ninh viết “Đến khi Nhà nước có chủ trương ghi công những người hoạt động trước Cách mạng Tháng Tám thì rất tiếc các nhân chứng biết rõ về quá trình hoạt động cách mạng và sự hy sinh của cha tôi trong nhà lao của Thực dân Pháp đã không còn ai sống nữa. Tôi đã tìm hiểu kĩ về cái chết của cha tôi qua hồi ức của bà nội và ông Nguyệt - người thợ sơn làm cùng cha tôi để viết thành truyện ký “Cha tôi””.
Cha tôi “ra đi” từ hồi Tiền khởi nghĩa. Lớn lên, tôi luôn day dứt “Vì sao cha tôi bị bắt, giam cầm đến chết trong nhà lao của Thực dân Pháp?”.
Tôi sinh ra ở một vùng quê thuộc phủ Từ Sơn. Từ xưa, quê tôi vẫn nổi tiếng về nghề nấu rượu với đặc sản rượu Cẩm thơm ngon, ai đã uống một lần còn nhớ mãi. Bên lũy tre xanh êm đềm của làng quê, dưới chế độ thực dân, phong kiến đã diễn ra bao thảm cảnh: Người dân vô tội bị bọn cường hào ức hiếp, bao gia đình tan nát chia lìa! Gia đình tôi cũng trong cảnh ngộ đó.
Nhà tôi nghèo lắm. Tài sản duy nhất chỉ có ba gian nhà gianh xiêu vẹo và ba sào ruộng trũng ở cánh đồng xa giáp làng Tam Sơn. Bà và mẹ tôi quanh năm lam lũ làm mướn mà vẫn không đủ ăn. Cha tôi phải đi làm thợ từ năm 14 tuổi. Khi còn sống, bà tôi kể cho tôi nghe về cha tôi:
- Cha cháu từ bé vốn hiền lành, thật thà. Một lần đi chơi nhặt được con dao rựa mới, có người hỏi xin liền cho ngay. Lớn lên, chẳng bao giờ rượu chè, cờ bạc, lại chịu khó, hay làm. Trong xóm có ông Nguyệt làm thợ cả sơn mài ở Đình Bảng rất mến tính nên cho đi làm phó nhỏ. Năm 1943, cha cháu 28 tuổi. Khác với trước, cha cháu hay đi làm về muộn, nhiều đêm trằn trọc, suy tính điều gì đó. Một hôm, quá nửa đêm cha cháu mới về. Bà gặng hỏi cha cháu chỉ im lặng, thay quần áo rồi đi nằm. Trời rạng sáng, tên quản xã Tư Sơn dẫn bọn tay sai ập vào nhà lục soát, không tìm thấy gì đành hậm hực: - Mẹ kiếp! Rồi mày sẽ biết tay ông!
Mấy hôm sau, cha cháu đau mắt nặng không đi làm. Tưởng thế là thoát nạn, nào ngờ! Đêm 27 tháng Chạp, trời tối như mực, cả nhà ngủ say. Mới tinh mơ, cha cháu vừa thức giấc đã nghe mụ hàng xóm chửi chõ sang kêu mất chiếc nồi đồng nấu rượu. Lập tức, chồng mụ nhảy qua bức tường đất thấp xông thẳng xuống bếp nhà mình lôi ngay ra chiếc nồi đồng hô hoán rồi vu cho cha cháu lấy trộm. Ngay lúc ấy, mấy người lạ mặt xông vào bắt trói rồi giải thẳng cha cháu lên nhà lao của Pháp trên tỉnh. Bà và mẹ cháu vô cùng uất ức nhưng chẳng biết kêu vào đâu, vì mụ hàng xóm ỷ thế anh trai nó là tên Tư Sơn khét tiếng tàn bạo. Nghe nói, hắn còn làm chỉ điểm cho quan Tây. Sau gần 3 tháng, cả nhà còn đang lo lắng chưa biết tính sao thì tin sét đánh ngang tai - cha cháu đã chết trong nhà lao!
- Trời ơi! Cha cháu có tội tình gì? Kẻ nào đã gây ra tội ác này?
Bà tôi thở dài:
- Vậy đấy, kẻ có quyền thế trong tay muốn làm gì mà chẳng được.
Nỗi đau mất con khiến đôi mắt bà tôi mờ đục. Năm tôi học lên cấp hai, bà tôi ốm nặng. Biết không qua khỏi, bà gọi tôi lại căn dặn:
- Cháu cố học hành! Sau này lớn khôn muốn biết rõ mọi chuyện về cha cháu, hãy đến hỏi ông Nguyệt.
Ghi sâu lời dặn của bà, tôi gắng công học tập rồi trở thành cô giáo. Trong một lần về thăm quê, tôi đến gặp ông Nguyệt:
- Bác còn nhớ cháu không ạ?
Ông ngỡ ngàng rồi thốt lên:
- À! Ra là con gái bố Lan! Cháu lớn quá, càng lớn càng giống cha!
Sau một lát trò chuyện, dường như thấu hiểu nỗi lòng tôi, ông đã kể cho tôi nghe khá tỉ mỉ về cha tôi:
- Bác và cha cháu cùng làm thợ sơn mài hơn mười năm. Cha cháu cần cù, chất phác, cương trực nên được mọi người tin yêu. Với bản tính ham học hỏi lại khéo tay nên đến năm 26 tuổi cha cháu đã là thợ giỏi. Cuối năm 1943, phong trào cách mạng lan rộng, nhất là vùng Đình Bảng. Có cả những cán bộ cấp trên về nằm vùng để chỉ đạo phong trào. Bọn mật thám và tay sai luôn rình mò lùng bắt cán bộ hòng triệt phá phong trào. Một chiều, tan giờ làm đã khá muộn, cha cháu chưa về mà hình như vẫn ngóng đợi ai đó. Lát sau, một người đàn ông khuôn mặt xương xương, vầng trán cao, đôi mắt sáng đến gặp cha cháu. Hai người vội vã đi vào trong làng. Sáng hôm sau bác nghe tin nhà cháu vừa bị khám xét.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, người cán bộ bác gặp lần trước có đến tìm cha cháu. Biết cha cháu bị bắt giam và mất trong nhà lao, ông rất xúc động. Ông kể lại lần đi cùng cha cháu vào một cơ sở trong làng để họp bàn việc triển khai Chỉ thị mới của cấp trên:
- Lúc đó, trời vừa nhá nhem tối, hai chúng tôi vừa đi vừa thận trọng quan sát mọi động tĩnh. Đến gần địa điểm họp thì biết “có động” nên vội vàng tìm đường rút. Ông Lan đi trước được một quãng, không may đụng phải bọn mật thám. Như thú dữ đánh hơi được mồi ngon, chúng liền hò nhau đuổi theo “Bắt lấy nó! Bắt lấy nó”. Lợi dụng trời tối đen, ông Lan lẩn ngay vào một nhà dân từng là cơ sở cách mạng và được giấu xuống hầm bí mật. Bọn chúng tưng hửng: - Mẹ kiếp! Thế là xổng mất con mồi!
Nhờ ông Lan thu hút địch về phía mình, tôi và các đồng chí khác đã rút lui an toàn.
Ông gửi lời chia buồn cùng gia đình và hẹn sẽ có dịp về thăm. Từ đấy không thấy tin tức gì về ông. Có lẽ người cán bộ ấy cũng đã hy sinh trong Kháng chiến chống Pháp.
Đôi mắt ông Nguyệt đượm buồn nuối tiếc. Ông nhấp ngụm nước rồi kể tôi nghe lần lên thăm cha tôi ở nhà lao:
- Sau gần một tháng bị bắt giam, sức khỏe cha cháu sút đi nhiều. Những vết bầm tím hằn lên khuôn mặt và khắp thân thể, tuy bước đi khó nhọc nhưng đôi mắt vẫn ánh lên niềm tin. Sau này bác có gặp lại một người tù quê ở Tam Sơn mà bác được biết trong lần lên thăm cha cháu. Người này kể lại:
- Tôi và ông Lan cùng bị cai ngục đưa lên phòng hỏi cung. Ông Lan bị mật thám tình nghi hoạt động bí mật, che giấu cán bộ cách mạng. Chúng không tìm được bằng chứng nên càng ra sức tra khảo. Lần nào ông Lan cũng chỉ một mực “Tôi không biết!”. Những trận dùi cui liên tiếp. Ông chết đi, sống lại nhiều lần nhưng kẻ thù vẫn không moi được bí mật nào. Chúng quay sang dụ dỗ, dọa nạt: - Khôn hồn thì khai hết ra, không những được tha ngay mà còn được trọng thưởng. Nếu mày còn ngoan cố thì chỉ có chết mục xác!
Ông Lan vẫn bình thản, kiên quyết: - Tôi chỉ biết làm thợ sơn, ngoài ra không hoạt động gì, không biết ai là cán bộ cách mạng!
Như thú dữ điên cuồng, chúng hùng hổ xông vào dùng giày đinh dẫm đạp liên hồi, khiến máu mồm, máu mũi ông tuôn ra lênh láng. Những ngày sau đó, ông yếu dần. Mỗi lần cố ngồi gượng dậy, ông lại ôm ngực ho rũ rượi. Vào một đêm cuối tháng Ba năm 1944, trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông trăng trối: - Các anh em hãy giữ vững chí khí! Cách mạng nhất định thành công!
Kể đến đây, giọng ông Nguyệt trầm hẳn xuống. Tôi cúi xuống nghẹn ngào. Ông ôn tồn động viên tôi: - Bác biết đó là nỗi mất mát quá lớn với cháu! Nhưng trời có mắt! Tên cường hào chó săn Tư Sơn đã bị Việt Minh xử tử vì hắn đã gây quá nhiều tội ác với nhân dân, với cách mạng. Thế là nỗi oan của cha cháu đã được sáng tỏ. Cái chết của cha cháu cũng như bao chiến sĩ vô danh khác thật không uổng phí.
Tạm biệt ông ra về, tôi bồi hồi xúc động, buồn thương xen lẫn tự hào. Chắp nối lời kể của mọi người và viết lại cuộc đời cha tôi cũng là thắp nén tâm nhang cho hương hồn của Người và cũng để tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với Đảng và Bác Hồ đã đem lại cuộc sống hòa bình, hạnh phúc hôm nay.
Truyện ký của Trần Thị Ninh
Ý kiến ()