Cơ giới hóa khâu thu hoạch lúa.
Việc hiện thực hóa AEC sẽ biến ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất của khu vực có dân số hơn 600 triệu. AEC gồm 5 yếu tố cơ bản: Chu chuyển tự do hàng hóa, dich vu seo vụ, lao động có tay nghề; chu chuyển tự do hơn nữa các dòng vốn và dòng đầu tư. Khi đó phần lớn các dòng sản phẩm sẽ được điều chỉnh thuế về 0%. Như vậy sẽ đặt ra nhiều cơ hội, song không ít thách thức đối với các lĩnh vực sản xuất trong nước nói chung và Bắc Ninh nói riêng. Một trong những khu vực bị tác động đầu tiên và trực tiếp là nông nghiệp và nông dân.
Một điều rất đáng trăn trở, “Nước đã đến chân”… mà ngay từ nhận thức về khái niệm hội nhập AEC cũng như hành trang cho bước “giậm nhảy” này của những người nông dân, chủ trang trại và cả các doanh nghiệp nữa vẫn còn rất lơ mơ và rất sơ sài!
Doanh nghiệp là mắt xích quan trọng trong chuỗi liên kết 4 nhà, vậy mà theo TS Võ Trí Thành, một kết quả điều tra cho thấy, có đến 80% số doanh nghiệp hầu như không để ý, hoặc không biết gì về thông tin hội nhập. Trong khi đó thị trường trong nước đã và đang chứng kiến làn sóng dịch chuyển hàng ngoại nhập, không chỉ sản phẩm của Trung Quốc mà khắp nơi mọc lên các sản phẩm đến từ Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Úc… trong đó có rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và hàng hóa được chế biến từ nông sản. Trước thời khắc hội nhập AEC, chúng ta thử đong, đếm xem “vốn liếng” thực lực của chúng ta đến đâu.
Thực trạng nông nghiệp, nông sản Bắc Ninh
Chặng đường vừa qua và nhất là những năm đổi mới, chúng ta đã chứng kiến và vô cùng tự hào về những thành tựu trong phát triển nông nghiệp nước nhà cũng như Bắc Ninh. Thành quả ấy đã góp phần to lớn vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo và an ninh lương thực. Song, trước xu thế bùng nổ hội nhập, đòi hỏi chúng ta cần nhận diện, định vị rõ ràng hơn về những lợi thế và hạn chế. Từ đó đề ra những quyết sách thay đổi phương thức và công nghệ sản xuất phù hợp để sớm giành thế “thượng phong” trong một “cuộc chiến lớn”, một sân chơi lớn.
Bắc Ninh là tỉnh công nghiệp hóa, song tỷ lệ dân số khu vực nông thôn chiếm tới 74%, sản xuất nông nghiệp vẫn là nền tảng quan trọng của đại bộ phận dân cư khu vực này. Thực tế cho thấy với quy mô và năng lực hiện có nông nghiệp Bắc Ninh đang ẩn chứa nhiều tiềm năng chưa được khai thác.

Đầu mối thu mua nông sản Hòa Đình (TP Bắc Ninh), mỗi ngày trung chuyển hàng trăm tấn nông sản của Trung Quốc.
Theo thống kê chưa đầy đủ, diện tích lúa toàn tỉnh khoảng hơn 72.442 ha, sản lượng thóc hơn 424 nghìn tấn, quy đạt hơn 290 nghìn tấn gạo. Với dân số của tỉnh khoảng hơn 1,1 triệu người thì sản lượng lương thực là bảo đảm được cho nhu cầu (ước tính mỗi người tiêu thụ 150 - 160 kg gạo/năm). Sản lượng rau các loại được sản xuất trên địa bàn tỉnh đạt hơn 220 nghìn tấn trên diện tích khoảng 8.460 ha. Trong đó, diện tích sản xuất rau theo hướng an toàn là khoảng 390 ha và sản lượng đạt 9.300 tấn, tập trung chủ yếu ở huyện Thuận Thành, Yên Phong, Quế Võ, Tiên Du. Những năm gần đây, mỗi năm ước tính tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt khoảng 90.640 tấn; trong đó thịt bò là 2.530 tấn; thịt trâu là gần 200 tấn; thịt lợn là hơn 71.450 tấn; thịt gia cầm là 16.500 tấn; sản lượng trứng gia cầm đạt 194,2 triệu quả...
Phương thức chăn nuôi đã có sự chuyển biến tích cực từ nhỏ lẻ, tận dụng sang chăn nuôi trang trại, sản xuất theo hướng hàng hoá đã và đang phát triển ở nhiều nơi. Chăn nuôi trang trại phát triển, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý chất lượng ATTP. Diện tích cho nuôi trồng thủy sản các loại là hơn 5.450 ha, với sản lượng khoảng 34,2 nghìn tấn/năm. Cùng với chăn nuôi trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản theo quy mô trang trại trên địa bàn tỉnh trong những năm qua có xu hướng tăng về cả quy mô và số lượng, nhiều trang trại đầu tư tiền tỷ được hình thành.
Toàn tỉnh có 73 trang trại theo tiêu chí của Thông tư số 27/2011/TT- BNNPTNT ngày 13-4-2011 là: cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu 2,1 ha và giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm. Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1 tỷ đồng/năm trở lên. Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên.
Như vậy, lộ trình phát triển nông nghiệp của Bắc Ninh đã có những chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên xét về quy mô, chiến lược phát triển của từng loại nông sản trong tỉnh vẫn chưa được thể hiện một cách bài bản để bắt kịp với hội nhập AEC.
Chưa sẵn sàng hội nhập
Hiện tại nông sản của Bắc Ninh mới chỉ đáp ứng tiêu thụ nội địa, chưa xâm nhập vào các thị trường lớn. Ngay như các siêu thị lớn, các KCN cũng chỉ có một số ít nông sản có mặt. Một số nông sản chúng ta đã bị “thua” ngay trên sân nhà. Bài toán nào để sản phẩm của cây đậu tương, khoai tây vào được nhà máy Vinasoy và Orion? Hiện tại diện tích trồng cây đậu tương, toàn tỉnh có 1.463 ha với sản lượng là 2.730 tấn, trong khi đó Nhà máy Vinasoy (KCN Tiên Sơn) mỗi năm tiêu thụ khoảng 16-18 nghìn tấn đậu nành hạt/năm và 90% nguồn nguyên liệu đang được Vianasoy thu mua trong nước và các thị trường khác. Tương tự như đỗ tương, toàn tỉnh hiện có hơn 2.000 ha khoai tây, sản lượng hơn 26.340 tấn/năm, nhưng khoai tây Bắc Ninh lại chưa vào được, hoặc rất ít sản phẩm được tiêu thụ tại Orion. Được biết khoảng 80% nguyên liệu khoai tây và trứng gà của Orion đều được nhập từ tỉnh ngoài...
Những năm gần đây trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện một số mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, an toàn sinh học, song con số này chỉ dừng lại ở mô hình và sản phẩm bán lẻ là chính, chưa có đầu ra ổn định. Chỉ điểm qua một vài lĩnh vực đã cho thấy sức cạnh tranh nông sản của Bắc Ninh đang yếu thế ngay trên thị trường nội địa, chứ chưa nói đến thị trường khu vực ASEAN và thế giới.
Điều đáng nói là sự tác động trực tiếp của Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ diễn ra vào cuối 2015. AEC đi vào hoạt động, với một thị trường cạnh tranh khốc liệt, với sự xuất hiện của nhiều mặt hàng nông sản chất lượng, uy tín của các nước trong khu vực. Nếu nông sản của Bắc Ninh vẫn không có sự đổi mới cả về phương thức sản xuất, lẫn chất lượng sản phẩm thì sớm muộn Bắc Ninh sẽ thành thị trường tiêu thụ sản phẩm của các nước và các tỉnh bạn.

Mô hình sản xuất hoa cao cấp trong nhà lưới tại Phú Lâm (Tiên Du), song quy mô nhỏ chưa hướng tới xuất khẩu.
Như vậy, chỉ còn chưa đầy 5 tháng nữa AEC chính thức có hiệu lực, nhưng một số các nhà quản lý, phần lớn các doanh nghiệp, chủ trang trại và đại bộ phận nông dân vẫn còn khá mơ hồ về khái niệm này và chưa hề có sự chuẩn bị để đón nhận nó. Hiện tại các địa phương trong tỉnh cơ bản vẫn duy trì phương thức sản xuất cũ là 2 vụ lúa, 1 vụ đông, các vùng thủy sản nuôi cá thâm canh... tỷ lệ mô hình, diện tích áp dụng phương pháp canh tác công nghệ cao còn quá khiêm tốn, mới chỉ có 69.000m2 nhà lưới để sản xuất các loại rau an toàn, hoa cao cấp. Trong khi Thái Lan, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất của họ đã có sự chuẩn bị từ rất lâu với việc hình thành các vùng sản xuất chuyên canh năng suất, chất lượng đi đôi với việc phát triển hệ thống bán lẻ ngay tại thị trường Việt Nam nói chung và Bắc Ninh nói riêng. Thời gian để chuẩn bị đối với nông sản Bắc Ninh trước ngưỡng cửa gia nhập AEC không còn nhiều, để tồn tại trong một thị trường cạnh tranh rộng lớn với hơn 600 triệu dân, không chỉ người nông dân, các doanh nghiệp, các nhà quản lý trong tỉnh cần định vị rõ vị trí nông sản của Bắc Ninh đang đứng ở đâu trong khu vực, sớm có giải pháp phát triển lâu dài, hiệu quả, chủ động thích ứng trong tình hình mới, để thị trường Bắc Ninh với hơn 1,1 triệu người và hàng vạn công nhân trong các KCN không bị các doanh nghiệp cung ứng nông sản nước ngoài lấn sân, điều kiểm. Tiến tới tạo ra các vùng sản xuất hàng hóa lớn với các sản phẩm nông sản có thương hiệu trong nước, trong khu vực và thế giới.
Tiếng nói người trong cuộc
Chưa có những “bước đi” lớn để đón hội nhập AEC
Ông Nguyễn Minh Tân, Phó Giám đốc Sở KH và CN

Chất lượng và giá cả là 2 yếu tố quan trọng của hàng hóa trong cạnh tranh và hội nhập. Về vấn đề chất lượng hàng hóa liên quan mật thiết đến việc áp dụng KHKT để nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn nông sản, đây là nhiệm vụ chính của ngành Khoa học và Công nghệ. Vấn đề giá cả liên quan đến nhân tố tổ chức sản xuất và quản lý. Với vai trò cơ quan quản lý nhà nước về khoa học của tỉnh thì những năm qua, Sở Khoa học và Công nghệ đã tập trung đẩy mạnh chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp như: Xây dựng các mô hình áp dụng các giống cây, con năng suất, chất lượng để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, giá trị thu nhập trên đơn vị canh tác. Tuy nhiên các mô hình cũng mới chỉ dừng ở mức trình diễn để khuyến khích nông dân áp dụng cung ứng nội địa là chính. Từ trước đến nay, thực hiện chỉ đạo phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn với hội nhập, ngành đã triển khai xây dựng các mô hình ứng dụng TBKT nhằm nhân rộng trong sản xuất, tạo đà cho hội nhập. Để đón nhận hội nhập AEC thì chưa có những “bước đi” lớn, cụ thể.
Đậu tương của Bắc Ninh chưa đáp ứng yêu cầu số lượng, chất lượng của Vinasoy
Ông Vũ Văn Huy Hoàng, Giám đốc Nhà máy Vinasoy Bắc Ninh

Năm 2015 Vinasoy Bắc Ninh tiếp tục triển khai đầu tư xây dựng giai đoạn II, với tổng công suất cả 2 giai đoạn là 180 triệu lít/năm. Ngoài phát triển các sản phẩm sữa đậu nành truyền thống, Vinasoy Bắc Ninh sẽ mở rộng sang sản xuất các sản phẩm khác có nguồn gốc từ đậu nành.
Với mục tiêu đó thì vấn đề nguồn nguyên liệu sẽ cần khối lượng tương đối lớn khoảng 16 -18 nghìn tấn đậu nành hạt/năm. Song 90% nguồn nguyên liệu Vinasoy thu mua và xây dựng vùng nguyên liệu tại một số tỉnh trong nước, rất tiếc, tại Bắc Ninh doanh nghiệp chưa thực hiện được vấn đề này. Nguyên nhân do Bắc Ninh chưa có vùng nguyên liệu bảo đảm về số lượng lẫn chất lượng để cung cấp cho Nhà máy. Đây là cơ hội cho các địa phương có tiềm năng đất bãi chuyên canh cây đậu tương.
Vấn đề hội nhập AEC đối với HTX còn xa vời
Ông Nguyễn Chí Hải, Giám đốc HTX dịch vụ tổng hợp Đông Bình (Gia Bình)

HTX dịch vụ tổng hợp Đông Bình có tổng diện tích 3,5 ha, đầu tư 6 hệ thống chuồng chăn nuôi lợn thương phẩm khép kín, quy mô nuôi 2.000 con/lứa và 1,5 ha trồng măng tây xanh xuất khẩu. HTX tạo việc làm thường xuyên cho 20 lao động. Tuy là HTX chăn nuôi lợn thương phẩm quy mô lớn nhất huyện Gia Bình nhưng cơ bản vẫn là nuôi gia công cho Công ty thức ăn chăn nuôi ARJ Việt Nam. Họ cung ứng thức ăn và bao tiêu sản phẩm cho HTX.
Mặc dù đã ý thức được vấn đề hội nhập AEC sẽ có nhiều cơ hội, song do HTX vẫn chưa chủ động được khâu sản xuất con giống, thức ăn, thuốc thú y và tiêu thụ nên mới chỉ tham gia trong một mắt xích của chuỗi liên kết này là sản xuất sản phẩm. Vấn đề hội nhập AEC đối với HTX còn xa vời nếu thiếu đi sự liên kết này. Bởi vì nếu tự thân một HTX chăn nuôi tại địa phương dù có quy mô lớn đi chăng nữa cũng chưa đủ tiềm lực tài chính để thực hiện các chiến lược đầu tư về sản xuất con giống, thức ăn, thuốc thú y, kỹ thuật… Những chi phí này cộng vào chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm sẽ đội lên thì không thể cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế lớn đầu tư bài bản từ khâu đầu vào - quá trình sản xuất - bao tiêu đầu ra sản phẩm, chi phí thấp, giá thành hạ.
Mình cũng chẳng hiểu AEC là gì?
Chị Nguyễn Thị Trang, Giám đốc HTX măng tây xanh (Gia Bình)

Mặc dù đã làm Giám đốc HTX măng tây xanh xuất khẩu nhưng chị Nguyễn Thị Trang cũng chẳng rõ khái niệm AEC là gì? Và HTX của chị có những cơ hội phát triển hay khó khăn thách thức như thế nào khi Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN với chị còn khá mơ hồ. Chị Trang chia sẻ: “Mình cũng chẳng hiểu AEC là gì? Chỉ biết làm nông sản xuất khẩu thì bảo đảm phải sạch, muốn sản phẩm sạch thì sử dụng thức ăn sạch…”.
Quan niệm của chị về vệ sinh ATTP cũng hết sức giản dị đúng như cách nghĩ của người nông dân thuần phác. Khi hỏi về vấn đề để rau sạch của HTX mình cạnh tranh trên thị trường rộng lớn hơn chị làm thế nào, chị cho biết: “HTX đang hoàn thiện các thủ tục, hồ sơ để đăng ký sản xuất rau sạch, còn về lâu dài cũng chưa có dự định lớn nào!”.
Chưa để ý đến hội nhập khu vực
Ông Nguyễn Thanh Tâm, chủ đại lý nông sản Tâm Oanh (Võ Cường, tp Bắc Ninh).

Cơ sở thu mua nông sản của gia đình đã kinh doanh được hơn 20 năm, cung ứng cho các vùng lân cận và chuyển vào các tỉnh miền Trung, miền Nam. Nguồn thu mua từ Trung Quốc là chủ yếu, nông sản của Bắc Ninh chỉ chiếm khoảng 10-15% sản lượng thu của cơ sở. Cái chính là do nguồn nông sản của địa phương không nhiều, sản xuất chủ yếu vụ đông là chính như: khoai tây, hành, tỏi, ớt… các vụ khác diện tích lẫn sản lượng không thể đáp ứng nhu cầu thường xuyên của các đại lý thu mua ở Hòa Đình (tại đây hiện có hơn 20 cơ sở, mỗi cơ sở thu mua bình quân 10 - 15 tấn nông sản/ngày).
Chúng tôi làm kinh doanh nông sản đâu có hàng là thu mua. Nói về vấn đề nông sản Bắc Ninh khi hội nhập AEC thì chúng tôi chưa để ý đến, bởi làm dịch vụ thu mua “nước nổi, bèo nổi”. Đâu mang lại lợi nhuận nhiều là chúng tôi làm.
Ý kiến ()