Vào mùa lễ hội, câu chuyện về tiền công đức, tiền giọt dầu - nguồn thu tại các nơi thờ tự lại là vấn đề “nóng” trong dư luận xã hội. Làm thế nào để công khai minh bạch thu chi và sử dụng hợp lý, đúng mục đích tiền công đức, tiền giọt dầu? Đây thực sự đang là bài toán khó giải của các cơ quan quản lý, rất cần sự quan tâm đóng góp, “hiến kế” của các tầng lớp nhân dân.
Ghi công đức ở chùa Hồng Ân trong những ngày hội Lim 2013.
Những câu chuyện hỉ, nộ, ái, ố
Theo từ điển, công đức là đức hạnh của một công dân đối với xã hội. Tiền giọt dầu (hay là tiền cúng dường), nghĩa là nhân dân góp chút tiền của để các sư sãi, bản đền đèn nhang, hương khói và trông nom các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Cả tiền công đức và tiền giọt dầu đều là do người dân tự nguyện góp tấm lòng thành của mình vào những nơi thờ tự. Vậy mà có người lại ví hòm công đức giống như “máy đẻ ra tiền” và quan trọng hơn ở một số nơi người ta không thể đoán định hay biết chính xác sản lượng của cái máy đó mỗi năm là bao nhiêu. Nhận định này thoạt nghe có vẻ “phạm” vào ý nghĩa văn hóa tốt đẹp của tiền công đức, tiền giọt dầu nhưng ngẫm và soi chiếu trong một số trường hợp thì thấy cũng chẳng sai.
Trong chuyến công tác kiểm tra hoạt động lễ hội tại đền Bà Chúa Kho của Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vào cuối tháng Chạp năm Nhâm Thìn, khi các thành viên trong đoàn công tác hỏi về tổng số tiền công đức trong năm 2012, các cụ trong BQL di tích Đền đã đưa ra hai con số chênh lệch nhau cả chục lần. Lúc đầu là 3 tỷ đồng nhưng sau khi gặng hỏi thì một người khác báo cáo là 30 tỷ!?...

Tiền lẻ vẫn rải khắp các ban thờ ở đền Bà Chúa Kho.
Tại buổi họp báo về công tác chỉ đạo, tổ chức, quản lý lễ hội đầu xuân Quý Tỵ 2013, trả lời câu hỏi của phóng viên về số hòm công đức đặt tại đền Bà Chúa Kho, ông Nguyễn Văn Cậy, Phó Chủ tịch UBND thành phố Bắc Ninh cho biết: Chúng tôi đang từng bước vận động nhà đền bố trí hòm công đức chứ chưa thể thực hiện được theo đúng hướng dẫn của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là mỗi di tích đặt ba hòm công đức. Còn về tổng số tiền công đức ở đền Bà Chúa Kho trong năm 2012, ông Cậy cũng thừa nhận: “Chúng tôi không nắm được cụ thể vì phường quản lý trực tiếp…”.
Khảo sát tại một số di tích tiêu biểu trên địa bàn tỉnh trong dịp lễ hội đầu xuân như: Chùa Hồng Ân (trong những ngày hội Lim), Đền Đô, đền Bà Chúa Kho, đền Cùng giếng Ngọc, chùa Phật Tích, chùa Dâu… nhận thấy khu vực các bàn ghi công đức lúc nào cũng tấp nập người ra vào công đức, có nơi còn phải xếp hàng chờ như kiểu đi mua vé tàu xe về Tết. Trong khi đó, ở các ban thờ, tiền lẻ với mệnh giá từ 500 đồng đến 50 nghìn đồng rải khắp trên đĩa, trên khay, cài vào hoa quả, đồ lễ, trên bệ tượng phật…
Tại đền Bà Chúa Kho, trong các ngày 11, 12 và 13 tháng Giêng âm lịch, lượng khách về hành lễ, “vay nợ” Bà Chúa Kho quá đông nên một số đối tượng còn lợi dụng đặt cả hòm công đức giả ngay trước sân hành lễ trung tâm đền mà báo chí cũng đã thông tin. Không chỉ thế, còn có biết bao câu chuyện hỉ, nộ, ái, ố xung quanh chiếc hòm công đức như: Mất cắp, mất trộm, thậm chí có ngôi chùa còn bị kẻ trộm đột nhập lấy đi cả tỷ đồng tiền công đức để làm từ thiện. Rồi đến những hành vi phản cảm bày la liệt hòm công đức, tràn lan khay, đĩa đựng tiền giọt dầu và còn đủ thứ chuyện ì xèo bàn tán xung quanh tiền công đức, nhất là ở các địa phương có di tích lớn.
Nói vậy nhưng cũng phải thừa nhận rằng, trong số hàng nghìn cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh thì chỉ khoảng mươi di tích tiêu biểu là có nhiều tiền công đức, còn lại phần lớn những nơi thờ tự khác thì cộng gộp cả tiền giọt dầu với tiền công đức cũng chỉ đủ nhà chùa, nhà đền chi phí đèn nhang, thỉnh thoảng trùng tu, sửa chữa những công trình hạng mục xuống cấp, hư hỏng. Thậm chí có những ngôi chùa làng, tiền công đức, tiền giọt dầu còn không đủ mua dầu đèn, sư sãi vẫn sống kham khổ chứ không phải đền, chùa nào cũng dồi dào như thế.
Thả nổi không được mà “quản” cũng không nên
Thực tế, ngoài một số ít kẻ lợi dụng công đức để “buôn Thần bán Thánh” thì phần lớn tiền công đức, tiền giọt dầu là những đồng tiền mồ hôi nước mắt, chắt chiu từ sức lao động chân chính của người dân, họ phát tâm công đức chỉ với ước nguyện góp thêm giọt dầu thờ Thánh, Phật; giúp các nhà sư chuyên tâm tu luyện rồi để trùng tu, sửa chữa nơi thờ tự hoặc chuyển đến những địa chỉ từ thiện đang thực sự cần… Thế nhưng lâu nay, việc quản lý thu chi, sử dụng tiền công đức ở hầu hết các nơi thờ tự chưa có sự thống nhất, mỗi nơi một kiểu, mạnh ai nấy làm và thiếu công khai minh bạch.
Phân tích về sự đa dạng, phức tạp trong mô hình quản lý tài chính ở các nơi thờ tự trên địa bàn tỉnh, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải, nguyên Phó Giám đốc sở Nội Vụ dẫn chứng: “Như ở đền Bà Chúa Kho thì tỉnh không quản được, thành phố Bắc Ninh (trước là thị xã) không quản được và kể cả UBND Phường cũng thế, chỉ có người dân và chính quyền địa phương trong khu Cổ Mễ biết chính xác mỗi mùa lễ hội thu được bao nhiêu và chi, tiêu như thế nào. Còn như trường hợp ở chùa Dâu (xã Thanh Khương, Thuận Thành), vị sư trụ trì chỉ được sử dụng tiền đặt trên các khay đĩa, còn tiền trong hòm công đức do BQL di tích thu và quản lý sử dụng. Trường hợp ở chùa Đồng Kỵ (Thị xã Từ Sơn) lại khác, mọi nguồn thu liên quan đến di tích, từ tiền công đức đến tiền giọt dầu… đều do chính quyền và nhân dân địa phương quản lý sau đó thực hiện trùng tu tôn tạo chứ vị sư ông trụ trì ở đó không hề biết và cũng không quan tâm. Ngược lại, ở chùa Hàm Long (xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh), sư trụ trì toàn quyền quản lý và quyết định, chính quyền địa phương không biết. Với chùa Phật Tích (Tiên Du) thì sư trụ trì và BQL di tích cùng thống nhất mở một tài khoản ở ngân hàng, khi nhà chùa hoặc BQL di tích cần sử dụng thì công khai rõ ràng… Lấy ví dụ ở một vài di tích để thấy rằng mô hình quản lý tiền công đức hiện nay đang có muôn hình muôn kiểu”.
Bàn về tiền công đức, tiền giọt dầu thực sự là bàn đến một vấn đề hết sức nhảy cảm và phức tạp. Đây là bài toán rất khó giải, đang cần sự quan tâm, đóng góp ý kiến cặn kẽ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân để làm sao tiền công đức - tấm lòng thành của nhân dân được sử dụng hợp lý, đúng mục đích.
Mới đây, tháng 1-2013, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch phối hợp với Bộ Nội Vụ ban hành Dự thảo Thông tư Liên tịch Hướng dẫn việc thực hiện nếp sống văn minh tại các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Trong đó, có một chương dành riêng cho việc Hướng dẫn quản lý và sử dụng tiền công đức.
Trao đổi với chúng tôi về dự thảo này, Hòa Thượng Thích Thanh Sam, Phó Pháp chủ HĐCM Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nguyên Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bắc Ninh chia sẻ: “Trong số hơn 600 ngôi chùa trên địa bàn tỉnh chỉ có một vài ngôi chùa tiêu biểu mới có nhiều tiền công đức, số còn lại phần lớn là những ngôi chùa làng, tiền công đức cả năm không đủ chi phí đèn nhang vậy thì quản lý cái gì? Theo tôi, không nên đặt vấn đề quản lý tiền công đức”.

Trong chùa Tiêu (thị xã Từ Sơn) không có bóng một hòm công đức.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải đề xuất: Tiền công đức nếu cứ thả nổi như hiện nay thì không ổn mà quản lý cũng không nên. Nên chăng chỉ ban hành một quy định khung hoặc hướng dẫn quản lý sử dụng. Sau đó, tùy đặc điểm tình hình ở mỗi địa phương để vận dụng thực hiện cho phù hợp. Quan trọng nhất là trước khi ban hành văn bản, dù là hướng dẫn cũng phải thực hiện theo phương pháp khoa học, có điều tra xã hội học, chưng cầu ý kiến những đối tượng liên quan sau đó tổng hợp, phân tích và cuối cùng thống nhất để xây dựng thành nội dung văn bản.
Không thể bỏ mặc, thả nổi thực trạng lộn xộn, phức tạp của việc quản lý thu chi, sử dụng tiền công đức nhưng quản lý cũng cần phải xem xét, cân nhắc hợp lý. Đây rõ ràng đang là bài toán khó và nan giải.
Một ngôi chùa không có hòm công đức
Để thay cho lời kết bài viết này, chúng tôi muốn giới thiệu với bạn đọc về một ngôi chùa đặc biệt mà hàng chục năm nay chưa từng có bất kỳ một hòm công đức nào. Cụ Nguyễn Thị Bằng, 84 tuổi - người đã hơn 20 năm phụ giúp sư thầy trông nom, quét dọn ở ngôi chùa này kể rằng: “Mấy chục năm lên đây phụ giúp sư thầy, chưa khi nào tôi thấy có hòm công đức. Hỏi tại sao thì sư trụ trì bảo vì thầy chưa có đức nên không cần hòm công đức. Những người đến chùa muốn công đức thì đặt tiền vào một chiếc đĩa dưới nhà thờ Tổ nhưng chỉ khi nào cần trùng tu, sửa chữa thì sư thầy mới nhận. Khi nhận công đức, dù nhiều hay ít (có phật tử công đức cả chục triệu đồng) nhưng nhà chùa chẳng bao giờ ghi tên công đức. Sư thầy cũng không đồng ý với cách đặt tiền lên các ban thờ và bảo: Là người có tâm thì đến cổng chùa, Phật đã biết. Tại sao cứ phải đặt tiền lên trước mặt Phật như vậy?!
Có lẽ, trong xã hội hiện đại này, những điều đặc biệt về ngôi chùa nói trên thật khó lòng tin được. Thế nhưng, điều tưởng như chỉ có trong mơ ấy lại đang hiện hữu thực sự ở chùa Tiêu (thị xã Từ Sơn). Đến đây, chắc chắn tất cả những chuyện dở khóc dở cười cùng đủ loại văn bản, thông tư, hướng dẫn và bài toán hóc búa, nan giải về tiền công đức, tiền giọt dầu đều trở nên phù phiếm…
Ý kiến ()